05:25:03 Ngày 19/04/2024 GMT+7
Xót lòng kỉ vật chiến tranh
Vào những ngày lễ, ai về nghĩa trang quốc tế Đô Lương đều bắt gặp hình ảnh người cựu chiến binh (CCB) tuổi xế chiều lom khom đi khắp nghĩa trang để thắp những nén hương cho các phần mộ liệt sĩ. Chiến tranh đã lùi xa, nhưng việc làm của người lính cụ Hồ ấy khiến bao người xúc động.
Bảo tàng kỷ vật kháng chiến
Tôi đến gặp CCB Trần Ánh Yên vào một ngày mưa dầm tại căn nhà tạm ven quốc lộ 7 (TT Đô Lương-Nghệ An) lúc ông đang bận bịu với công việc chăm sóc, vận chuyển cây cảnh. Với dáng người nhỏ nhắn, rắn rỏi tuy đã bước qua tuổi 63 nhưng trông ông vẫn rất nhanh nhẹn và hoạt bát.
Nhập ngũ năm 1968, 2 năm là lính công binh của đoàn 22 thuộc Quân khu 4, ông từng tham gia mở đường, đào hào bảo vệ vùng biển Nghi Lộc, Cửa Lò (Nghệ An) chống sự đánh phá của tàu chiến Mỹ, ông Yên được biên chế vào Trung đoàn 271 rồi đi Thượng Lào chiến đấu. Trong Trung đoàn 271 anh hùng, ông Yên là một người sống và gắn bó lâu năm nhất từ khi vào lính đến lúc xuất ngũ (1968-1989). Sau nhiều năm chiến đấu vô cùng gian khổ, ông về đoàn tụ cùng vợ con năm 1988 với quân hàm Đại úy và góp nhặt, dành dụm từng đồng để mỗi khi có dịp là về lại chiến trường xưa để nhặt nhạnh từng kỷ vật kháng chiến và tìm kiếm phần mộ đồng đội.
Thời bấy giờ, thanh niên trai tráng đều hăng hái đi bộ đội. “Trước khi ra đi, không ai nghỉ đến ngày về. Trong quân ngũ, tình đồng chí, đồng đội có khi còn thắm thiết hơn anh em ruột thịt. Qua bao nhiêu trận chiến gian khổ, qua bao chiến trường khốc liệt, tôi chứng kiến bao đồng đội nhẹ thì bị thương, nặng thì vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, được sống sót trở về với tôi đó là một niềm hạnh phúc nhưng không vì thế mà tôi quên các đồng chí, đồng đội. Do đó, những kỷ vật đã theo mình vào sinh ra tử suốt những năm kháng chiến mới thấy có ý nghĩa và tôi đã giữ lại” - Ông ngậm ngùi kể. Sau những lần đi thăm lại chiến trường xưa, thăm đồng đội thấy những vật dụng của đồng đội ông đều tìm cách mang về. Đến giờ, trong căn nhà tạm của ông đã có hàng chục kỷ vật chiến tranh.
Theo ông, kỷ vật nào cũng quý, cũng gắn nhiều kỷ niệm như chiếc lưỡi cưa lúc ở nhà nó quá bình thường nhưng với người lính lúc chiến đấu nơi rừng sâu thì đó thật là một dụng cụ quan trọng vì không có nó thì không thể dựng lán được nên ông vẫn cất giữ rất cẩn thận.
Kỷ vật lâu nhất, có ý nghĩa nhất là chiếc đài radio. Lúc hành quân trên đường Trường Sơn, ngày đi đêm nghỉ mang hai cơ số đạn, ăn không đủ no, có chiếc đài của anh chính trị viên phát những bài ca kháng chiến, chương trình thời sự, tuy mệt nhưng vẫn cố gắng theo cho kịp chính trị viên để được nghe tiếng đài: “Điều đó càng có ý nghĩa động viên tinh thần anh em, chiến sĩ chiến đấu vừa theo dõi tình hình xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc để có niềm tin vào chế độ. Có những lúc đài mất sóng, anh em chúng tôi cứ lo bom Mỹ ném trúng đài phát thanh nhưng một lúc sau đó lại được nghe, anh em thêm phấn khởi”.
Vừa nói, ông vừa cho tôi xem, vừa chỉ dẫn rõ công dụng và nguồn gốc xuất xứ của từng vật dụng thân thuộc với người lính từ chiếc bật lửa, chiếc bi đông, lưỡi cưa, đèn chiến đấu đến những vật dụng phức tạp như ống nhòm, đồng hồ pháo binh, vỏ bom bi, hay chiếc lược nhôm tự tay ông làm để tặng cho người yêu cũng là vợ của ông… tất cả đều được ông cất giữ cẩn thận. “Tôi cóp nhặt, giữ lại những kỷ vật này cũng là để luôn nhớ đến một thời oanh liệt mà hào hùng của những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Những vật dụng đơn giản nhưng đằng sau nó là biết bao câu chuyện cảm động của những người lính nơi chiến trường”. Những lúc đồng đội đến chơi, ông thường mang ra để cùng hàn huyên, nhắc lại một thời khói lửa mà hào hùng. Ông định sau này lúc gần tạ thế sẽ dành tặng toàn bộ những hiện vật của mình cho bảo tàng quân sự Việt Nam.
Lập danh sách trên 1000 phần mộ liệt sĩ
Đến thời điểm này, ông và đồng đội đã lập được danh sách 1031 ngôi mộ liệt sĩ của Trung đoàn 271, Sư đoàn 302 hy sinh từ năm 1972 đến năm 1977 tại những chiến trường nơi ông đã từng công tác và chiến đấu gồm tên tuổi, quê quán, chức vụ, ngày hi sinh, đang yên nghỉ tại đâu… nhiều người thân các liệt sĩ không khỏi xúc động khi được ông cung cấp thông tin tận tình, chi tiết.
 Khi có dịp về địa phương nơi ông từng chiến đấu, ông cố nhớ lại xem tại đó có bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống thì hỏi người dân rồi lấy thông tin, cứ như vậy càng ngày danh sách thông tin phần mộ liệt sĩ đồng đội của ông ngày càng một thêm dày. Sau ngày giải phóng, ông không nhớ rõ đã bao lần về thăm lại chiến trường xưa để tìm phần mộ đồng đội nhưng chắc rằng con số đó cũng đã trên chục lần. Tất cả mọi khoản kinh phí đi lại đều do riêng cá nhân ông cùng đội đội tự bỏ ra
Ông bộc bạch: “Đối với những người như tôi, được trở về đã là may mắn. Bao đồng đội của mình đã về với đất, bỏ lại đằng sau mẹ già, em nhỏ… để mình có được cuộc sống ngày hôm nay. Như mắc nợ, tìm lại tên cho đồng đội là việc làm để tôi và đồng đội có thể thay lời tri ân với những người đã ngã xuống. Sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, Trung đoàn 271 tổng kết có khoảng 1600 chiến sĩ hi sinh, ngoài danh sách thông tin phần mộ liệt sĩ đã có thì vẫn còn hơn 500 liệt sĩ chưa tìm được phần mộ.
Trong thời gian tới, ông dự định sẽ cùng đồng đội đi tìm thông tin của những ngôi mộ liệt sĩ còn lại và làm một chiếc tủ trưng bày, ghi rõ tên và nguồn gốc của từng hiện vật mà ông đang có. Hiện giờ, ông đã là chủ của một vườn hoa cây cảnh bạc tỷ nằm ven đường quốc lộ 7, thị trấn Đô Lương với sự giúp sức của người con trai cả. Người con trai út của ông cũng đã tốt nghiệp đại học và đang làm việc tại Đà Nẵng. “Nghề cây cảnh luôn chân luôn tay, ít khi được nghỉ ngơi lắm. Sắp đến ngày 30-4 rồi, đồng đội trong Nam có mời vào chơi, nhưng không biết có sắp xếp thời gian để mà đi được hay không nữa”. Ông tâm sự.

 

 HỒ NGỢI - VNU Media
   In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
   Xem tin bài theo thời gian :
Bản tin ĐHQGHN số 387 | PDF
TRÊN WEBSITE KHÁC