Tin tức chung
Trang chủ   >  Tin tức  >   Tin tức chung  >  
ĐH Đông Dương (1906-1945) và những bài học lịch sử
Cách đây vừa tròn 10 năm, chúng ta đã có một cuộc hội thảo lớn kỷ niệm 100 năm ngày Đại học Đông Dương (ĐHĐD) được thành lập (1906-2006). Trong dịp đó, nhiều bài nghiên cứu đã được công bố nhằm chứng minh sự ra đời và phát triển của Đại học Đông Dương cùng những thành tựu mà nó đã đạt được về nhiều phương diện. Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn còn có một số ý kiến hoài nghi về mốc ra đời và những tác động của nó đối với xã hội Việt Nam thời kỳ 1906-1954.

Báo cáo dựa trên cơ sở của những phông tài liệu (fonds d’archives) hiện đang được bảo quản tại hai Trung tâm Lưu trữ quốc gia của Việt Nam và của Pháp với những chứng cứ khoa học nhất và khách quan nhất, nhằm mục đích làm sáng tỏ hai vấn đề nêu trên, đồng thời giúp các nhà nghiên cứu có thêm tài liệu về nền giáo dục của Việt Nam thời kỳ 1906-1954.

Báo cáo gồm 3 phần:

I. Chủ trương, chính sách về văn hóa, giáo dục của chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước khi có Đại học Đông Dương 1906.

II. Sự ra đời, quá trình phát triển và những thành tựu của Đại học Đông Dương qua các thời kỳ lịch sử.

III. Những tác động của Đại học Đông Dương đối với xã hội Việt Nam thời kỳ 1906-1954.

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam ở cửa biển Đà Nẵng. Năm 1867, sau khi đánh chiếm được toàn bộ Nam Kỳ lục tỉnh, cùng với việc thiết lập hệ thống chính quyền cai trị ở Nam Kỳ, thực dân Pháp bắt đầu nhòm ngó ra Bắc Kỳ. Song, cho đến trước 1873, do tình hình chính trị của nước Pháp có nhiều biến động nên tư bản Pháp chưa dám chủ trương mở rộng chiến tranh ở Việt Nam.

Ngày 20-11-1873, thực dân Pháp tấn công thành Hà Nội lần thứ nhất, chính thức mở đầu công cuộc “bình định” xứ Bắc Kỳ, tiến tới thôn tính toàn bộ đất nước Việt Nam.Năm 1884, sau khi hiệp ước Patenôtre được ký kết, thực dân Pháp cho rằng cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã hoàn tất. Nhưng phải đến năm 1897, sau khi đàn áp xong phong trào Cần Vương, thực dân Pháp mới có thể củng cố nền thống trị để bắt tay vào công cuộc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa Đông Dương một cách có hệ thống. Toàn quyền Paul Doumer chính là người đặt nền móng cho toàn bộ công cuộc thống trị, khai thác thuộc địa có tính chiến lược của người Pháp ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng.

Trong thời kỳ là Toàn quyền, Paul Doumer đặc biệt quan tâm đến việc cải cách chế độ cai trị, chính sách tài chính, thuế  khóa, nhằm huy động nguồn vốn đầu tư và lực lượng lao động khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế thuộc địa.Chính trong thời kỳ này, một hệ thống giao thông mới bao gồm cả đường sắt, đường bộ và đường thủy thuộc loại hiện đại nhất châu Á vào thời điểm đó đã được khởi công xây dựng ở Việt Nam, trong đó có cây cầu bằng thép bắc qua sông Hồng được Toàn quyền Paul Doumer đặt viên đá đầu tiên trong ngày khởi công xây dựng công trình (ngày 12-9-1898) . Cùng với hệ thống giao thông hiện đại, một hệ thống thông tin liên lạc bằng điện tín cũng được xây dựng, tạo điều kiện cho việc hình thành một kết cấu kinh tế thuộc địa hiện đại với sự hình thành và phát triển của một số thành phố và trung tâm công nghiệp có quy mô tương đối lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Vinh – Bến Thủy, Nam Định, Quảng Yên…

Riêng đối với Hà Nội, nhằm mục đích xây dựng thành phố này thành “thủ đô của Bắc Kỳ” và sau này nâng lên thành “thủ đô của Liên bang Đông Dương thuộc Pháp”, chính quyền thực dân đã đầu tư xây dựng tại Hà Nội hàng loạt trụ sở của các cơ quan đại diện cho bộ máy chính trị cao cấp, trụ sở của các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp, hành chính và trụ sở của các công sở thuộc các ngành... như công trình Phủ Toàn quyền Đông Dương (Palais du Gouvernement général de l’Indochine) khởi công xây dựng năm 1900;công trình Phủ Thống sứ Bắc Kỳ (Résidence supérieure au Tonkin)xây dựng từ năm 1892;công trình Nha Thương chính Đông Dương (Service des Douanes et Régies à Hanoï) khởi công xây dựng năm 1893; công trình Tổng Thanh tra Công chính Đông Dương (Inspection générale des Travaux Publics de l’Indochine) khởi công xây dựng năm 1896; công trình Sở Kiểm tra Tài chính Đông Dương (Contrôle Financier) khởi công xây dựng năm 1896…nhằm đề cao sức mạnh của chính quyền thực dân. Ngoài ra, một số cơ sở sản xuất cũng được xây dựng trong giai đoạn Paul Doumer giữ chức Toàn quyền Đông Dươngnhư nhà máy điện Bờ Hồ (xây dựng năm 1899), nhà máy tầu điện Hà Nội (xây dựng năm 1900), nhà máy nước Yên Phụ (xây dựng năm 1904), nhà máy thuộc da Thuỵ Khuê (xây dựng năm 1912)… Chính nhờ những “thành tích” đó mà Paul Doumer được coi là cha đẻ của toàn bộ công cuộc khai thác xứ thuộc địa Đông Dương.

Chính sách “chia để trị” cùng các chính sách về tài chính, thuế khóa, nhằm huy động nguồn vốn đầu tư và lực lượng lao động khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế thuộc địa, phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chính quyền thuộc địa đã làm cho tính chất xã hội và cơ cấu giai cấp xã hội Việt Nam biến đổi sâu sắc. Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cùng với phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi phát động (1885-1896) và hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân kéo dài từ 1885 (khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo) đến 1913 (phong trào nông dân Yên Thế do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo)... đã chứng minh tinh thần yêu nước, ý chí bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta.

Bên cạnh phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến còn có các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản với nhiều khuynh hướng khác nhau như khuynh hướng bạo động vũ trang do Phan Bội Châu lãnh đạo, khuynh hướng cải cách dân chủ do Phan Châu Trinh tổ chức. Ngoài ra còn có các phong trào khác như phong trào dạy học theo lối mới ở Trường Đông Kinh Nghĩa Thục, Hà Nội (1907); phong trào biểu tình chống thuế ở Trung Kỳ (1908) …Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản phản ánh tinh thần dân tộc của một bộ phận trí thức, tư sản Việt Nam, tuy thất bại song ít nhiều đều có ảnh hưởng tới chính sách về giáo dục của chính quyền thuộc địa ở giai đoạn đầu thế kỷ XX.

I. Chủ trương, chính sách về văn hóa, giáo dục của chính quyền thuộc địa ở Việt Nam trước khi có Đại học Đông Dương 1906.

Tuy được ca ngợi là “cha đẻ của toàn bộ công cuộc khai thác xứ thuộc địa Đông Dương” nhưngPaul Doumer rất ít quan tâm đến việc xây dựng cơ sở xã hội, văn hóa và khoa học ở thuộc địa. Mặc dù phải thốt lên đầy nuối tiếc về sự kiện Thành cổ Hà Nội bị phá năm 1897 trong khi quy hoạch Hà Nội của người tiền nhiệm khi mới nhậm chức Toàn quyền: “Tôi đến quá chậm để có thể cứu lấy những phần đặc sắc, cụ thể là các cổng thành. Những di tích ấy đáng lẽ phải được bảo tồn. Chúng có những đặc trưng quý giá, chỉ như vậy thôi cũng đáng được chúng ta trân trọng. Đó là những kỷ niệm lịch sử gắn bó với nơi đây, chúng có thể làm đẹp cho các khu xây dựng mới của Thành phố...”, nhưng trong nhiệm kỳ của Paul Doumer, hiếm thấycơ sở xã hội, văn hóa và khoa học xuất hiện ở thuộc địa. Nền giáo dục ở thuộc địa thực sự chỉ có những thay đổi tích cực kể từ khi có người kế nhiệm của Paul Doumer – Toàn quyền Paul Beau với cuộc cải cách giáo dục đầu tiên (1906-1916).

Theo tài liệu của phông Phủ Toàn quyền Đông Dương (Fonds du Gouvernement général de l’Indochine) đang được bảo quản tại hai Lưu trữ quốc gia Việt Nam và Cộng hòa Pháp, thời kỳ Paul Beau mới đến Đông Dương, giáo dục chỉ là một công việc hoàn toàn có tính chất địa phương, trực thuộc các viên quản lý hành chính của mỗi xứ trong toàn Liên bang Đông Dương. Không có một sự hợp tác chặt chẽ nào, không có một hướng chỉ đạo chung thống nhất nào. Trừ Nam Kỳ là nơi chữ Hán đã bị bỏ hẳn và là nơi các trường Pháp-bản xứ tương đối phát triển, còn ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Cao Miên, các trường Pháp-bản xứ dạy tiếng Pháp với những yếu tố giáo dục của phương Tây rất khan hiếm và rất ít học sinh, chủ yếu là các trường dạy chữ Hán của người Việt và các trường của các chùa người Khơ-me.

Thời kỳ trước khi Paul Beau đặt chân tới Đông Dương có thể được xem như thời kỳ “thử nghiệm” về giáo dục, mang tính chất địa phương của chính quyền thuộc địa bởi những văn bản pháp quy mà chính quyền thuộc địa được ban hành chỉ áp dụng ở Nam Kỳ, nơi mà người Pháp bắt đầu quá trình xâm lược Đông Dương sớm nhất và là nơi mà họ xem như “thuộc địa” của mình.

Nửa cuối thế kỷ XIX là thời điểm xuất hiện của những ngôi trường Pháp -Việt đầu tiên ở Nam Kỳ, trong số đó trước hết phải kể đến hệ thống trường thông ngôn, nơi mà người Pháp đào tạo ra một đội ngũ người bản xứ làm việc trong chính quyền thuộc địa. Những trường này được thành lập theo Lệnh số 60 ngày 16-7-1864 của Chuẩn Đô đốc - Thống đốc Nam Kỳ De La Grandière, ngay sau khi chiếm được ba tỉnh miền Đông Nam Bộ và biến ba tỉnh này thành thuộc địa của Pháp. Tại các trường này, mỗi lớp học đều do một thông ngôn phụ trách. Sau 2 tháng, Thanh tra công việc nội chính bản xứ tiến hành thanh tra các trường tiểu học nhằm đánh giá kết quả đạt được và đề cử những giáo viên xứng đáng nhận phần thưởng theo quy định. Các trường theo mô hình này đã được mở tại các làng lân cận, do những người xin phép mở trường đã chứng minh được đủ kiến thức và năng lực điều hành. 

Trong giai đoạn này, chính quyền thuộc địa đã ban hành một số văn bản về giáo dục trong đó có hai văn bản quan trọng là Quyết định ngày 17-11-1874 của Chuẩn đô đốc-quyền Thống đốc Nam Kỳ đặt quy chế cho ngành học chính tại Nam Kỳ, chia nền giáo dục làm hai bậc là tiểu học và trung học và Nghị định số 55 ngày 17-3-1879 của Thống đốc Nam Kỳ về tổ chức Sở Học chính Nam Kỳ, chia hệ thống giáo dục làm ba cấp I, II, III. Cả hai văn bản này đều quy định, tại các trường thuộc địa, chương trình giáo dục công tại Nam Kỳ hoàn toàn miễn phí và mang tính tự nguyện. Trường tư chỉ được mở khi chính quyền cho phép và bất cứ người nào xin giấy phép mở trường tư đều phải đáp ứng đủ các điều kiện về đạo đức cũng như về năng lực theo quy định và phải chịu sự giám sát của chính quyền. Tuy nhiên, vấn đề cơ bản trong việc mở các trường công và tư là chương trình giảng dạy thì đều không thấy quy định trong cả hai văn bản nói trên. Có thể vì coi Nam Kỳ là thuộc địa nên người Pháp đã áp dụng tại Nam Kỳ những quy chuẩn về giáo dục của nước Pháp.

Ở Bắc Kỳ, từ năm 1886, ngay khi chính quyền thuộc địa tiến hành “bình định” xứ này thì nền giáo dục ở đây đã có một số thay đổi đáng chú ý, kể từ khi Paul Bert được cử giữ chức Tổng Trú sứ Trung – Bắc Kỳ. Vốn là một nhà giáo dục nổi tiếng của Pháp nên ngay sau khi đặt chân tới Hà Nội, cùng với lời tuyên bố: “Người Pháp đến đây là để nâng cao đời sống nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế và còn nâng cao đời sống tinh thần bằng giáo dục”, Paul Bert đã tự tay đôn đốc việc xây dựng trường sở và ra những chỉ thị cụ thể để chỉ đạo công tác giáo dục.

Văn bản quan trọng nhất của Paul Bert về lĩnh vực giáo dục chính là Quyết định ngày 12-3-1885 về tổ chức chương trình giáo dục bậc tiểu học với chương trình giảng dạy bằng tiếng Pháp tại các trường tiểu học thuộc Chính quyền Bảo hộ. Mặc dù cũng nhằm mục đích đào tạo ra một đội ngũ người bản xứ làm việc trong chính quyền thuộc địa như các văn bản khác đã được chính quyền thuộc địa ban hành ở Nam Kỳ, song Quyết định ngày 12-3-1885 của Paul Bert có tính thực dụng hơn. Vì không tán thành việc bắt người Việt bỏ hẳn chữ Hán để học chữ Pháp và chữ Quốc ngữ như các Đô đốc đã làm ở Nam Kỳ nên Paul Bert vẫn cho học sinh học chữ Hán. Điều này thể hiện trong quy định về chương trình giảng dạy của các trường tiểu học: “Việc giảng dạy ngôn ngữ bản xứ là chữ Quốc ngữ và chữ Hán được thực hiện bên cạnh các buổi học tiếng Pháp”. Ngoài ra, Quyết định ngày 12-3-1885 của Paul Bert còn quy định rõ chức trách của những người trực tiếp thực thi văn bản; khung nhân sự ở các trường tiểu học; trách nhiệm của Hiệu trưởng; việc thanh kiểm tra các trường học; lương, hình thức thăng trật, thứ bậc nhân sự và các hình thức kỉ luật đối với các giáo sư người Pháp biệt phái làm trong ngành học chính cũng như đối với các giáo sư và giáo viên tiểu học người bản xứ…

Quyết định ngày 12-3-1885 chứng tỏ Paul Bert đã dày công chuẩn bị một nền móng vững chắc cho “sự nghiệp giáo dục” của mình nhưng tiếc thay, sau cái chết đột ngột của Paul Bert vào cuối năm 1886, tình hình giáo dục ở Bắc Kỳ ít có sự thay đổi, phần vì không có ai tiếp tục sự nghiệp của Paul Bert, phần vì chính quyền thuộc địa còn phải lo tiến hành các cuộc hành quân “bình định” Bắc Kỳ. Tuy nhiên, Quyết định ngày 12-3-1885 vẫn có hiệu lực trong một thời gian dài sau đó và vẫn mang lại những kết quả đáng khích lệ về giáo dục. 5 năm sau ngày Paul Bert mất, không kể một trường tiểu học dành cho người bản xứ với 230 học sinh và 6 giáo viên người Việt đã tồn tại ở Hà Nội từ trước khi Paul Bert tới, Hà Nội đã có thêm 7 trường Pháp - Việt được thành lập. Ngoài ra, ở Bắc Kỳ còn có một số trường được mở ở Hà Nội để đào tạo đội ngũ công chức, Tây học sẵn sàng phục vụ, cộng tác với Pháp như Trường dạy nghề ở Hà Nội (Ecole professionnelle de Hanoï) do Phòng Thương mại Hà Nội tổ chức năm 1898, Trường Y khoa Hà Nội (Ecole de Médecine de Hanoï) thành lập năm 1902, Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d’Administration de Hanoï) thành lập năm 1905 để đào tạo tri phủ, tri huyện, huấn đạo, giáo thụ…

Về khoa học, trong số rất ít các cơ sở khoa học đã được thành lập ở thời kỳ này chỉ có một tổ chức khoa học xã hội duy nhất ở thuộc địa, đó là Phái bộ Khảo cổ thường trực tại Đông Dương được thành lập theo Nghị định ngày 15-12-1898 của Toàn quyền Đông Dương. Vốn “chịu sự kiểm soát về phương diện khoa học của Viện Bia ký và Văn chương Pháp”, và sau được chính thức đổi tên thành Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (Ecole française d’Extrême Orient – EFEO), tổ chức này đã có những tư vấn, can thiệp tích cực vào việc xếp hạng, kiểm kê để quản lý tốt hơn các công trình văn hóa (bao gồm cả văn hóa tín ngưỡng) và các di tích lịch sử ở Việt Nam nói riêng, Đông Dương nói chung. Bằng chứng xác thực là các toà nhà và vật thể của thành phố Hà Nội thuộc danh mục các công trình lịch sử ở Đông Dương đã được xếp hạng kể từ khi quyền Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định ngày 15-4-1905, sau khi có sự tư vấn của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp.

Về lĩnh vực văn hóa, mặc dù ngay từ năm 1907, chính quyền thuộc địa đã nhận thức được tình trạng bi thảm của tài liệu lưu trữ qua việc Thống sứ Bắc Kỳ yêu cầu Tư lệnh các Đạo quan binh, Công sứ các tỉnh, Đốc lý Hà Nội và Thị trưởng Hải Phòng “tìm trong các phòng làm việc tại các công sở hành chính thuộc địa và bản xứ” để “tập hợp tất cả các hồ sơ và tài liệu có thể có giá trị về sự thiết lập nền Bảo hộ của Pháp ở Bắc Kỳ”  mà không có kết quả nhưng vẫn không có một cơ quan chuyên môn về Lưu trữ và Thư viện nào được thành lập. Và chính vì thế, tài liệu trên toàn Đông Dương nói chung, ở Việt Nam nói riêng đều ở trong tình trạng bị bỏ rơi, không được chăm sóc, bảo quản tốt. Tình trạng đó tất nhiên sẽ dẫn đến sự hư hỏng do điều kiện khí hậu ẩm ướt của xứ nhiệt đới, sự mất mát, thất lạc… và một kết cục bi thảm tất yếu đã xẩy ra: nhiều tài liệu vô giá về lịch sử thuộc địa đã biến mất, không để lại một dấu vết nào.

Tình trạng không thống nhất về giáo dục, khoa học và văn hóa hầu như bị bỏ rơi như trên là hậu quả của các chính sách về tài chính, thuế khóa, nhằm huy động nguồn vốn đầu tư và lực lượng lao động khổng lồ để xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế thuộc địa, phục vụ cho cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của chính quyền thuộc địa. Thêm vào đó, chính sách “chia để trị” cùngcông cuộc chinh phục với các cuộc hành quân triền miên nhằm đàn áp các phong trào yêu nước của người dân bản xứ, các cuộc vận động giới tư bản chính quốc nhằm đạt được sự ủng hộ của chính phủ trung ương trong việc mở rộng chiến tranh ở Đông Dương… tất cả nhằm mục đích tối cao là thôn tính vĩnh viễn mảnh đất Đông Dương mầu mỡ đã thu hút mọi nỗ lực của chính quyền thực dân ở thuộc địa. Trong chính sách đó không có chỗ cho giáo dục, khoa học và văn hóa. Phải mãi cho đến năm 1917 với nhiệm kỳ của Toàn quyền Albert Sarraut, tình hình đó mới được cải thiện.

II. Sự ra đời, quá trình phát triển và những thành tựu của Đại học Đông Dương qua các thời kỳ lịch sử

1. Đại học Đông Dương thời kỳ 1906-1917.

Có thể nói rằng, sự ra đời và phát triển của Đại học Đông Dương gắn liền với hai cuộc cải cách giáo dục ở Việt Nam do hai Toàn quyền Đông Dương là Paul Beau và Albert Sarraut khởi xướng.

Năm 1906, Toàn quyền Paul Beau cho thực hiện cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất theo mô hình giáo dục của Pháp (1906-1916). Cuộc cải cách này được thể hiện ở việc ban hành và thực thi các nghị định của chính quyền thuộc địa.

Bước đột phá đầu tiên trong lĩnh vực giáo dục của Toàn quyền Paul Beau là việc ban hành Nghị định thứ nhất vào ngày 8-3-1906 về thành lập Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l’Enseignement indigène) với nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề cải tổ nền giáo dục cũ, cải cách các kỳ thi Hương ở Bắc và Trung Kỳ.

Nghị định này được hoàn thiện bởi 4 nghị định ban hành cùng ngày 16-5-1906 về cải cách nền học chính bản xứ tại Đông Dương trong đó có Nghị định mở cuộc thi biên soạn sách giáo khoa cho các trường học bản xứ tại Đông Dương và thành lập tại mỗi xứ ở Đông Dương một Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ. Theo tinh thần của Nghị định này, mỗi xứ sẽ có một Hội đồng với các tiêu chí hoàn thiện về giáo dục riêng đặt ra cho xứ mình.

Một nhiệm vụ quan trọng khác của Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ là “nghiên cứu những điều kiện để thành lập và hoạt động của một trường đại học gồm các môn giảng dạy ở bậc đại học dành cho người bản xứ và người châu Á”. Theo đề nghị của Hội đồng, ngày 16-5-1906, Toàn quyền Beau đã ký Nghị định số 1514a về việc thành lập ĐHĐD với mục đích “thông qua tiếng Pháp để phổ biến kiến thức khoa học và phương pháp của người Âu tại Viễn Đông”.

Về cơ cấu tổ chức, Đại học Đông Dương được đặt dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của Toàn quyền, do một Hội đồng quản trị điều hành với thành phần bao gồm: Giám đốc Nha Học chính Đông Dương (Chủ tịch); Giám đốc các trung tâm khoa học tại Đông Dương; hiệu trưởng các trường chuyên ngành được sáp nhập vào Đại học Đông Dương và một số giảng viên là đại diện của nhiều đơn vị, trường học. Chi phí cho hoạt động của các lớp và của Đại học Đông Dương do ngân sách chính quyền liên bang và ngân sách địa phương chi trả.

Theo Nghị định số 1514a, Đại học Đông Dương gồm có 5 trường thành viên đều gọi chung là trường cao đẳng. Đó là các trường: Luật và Pháp chính (Ecole supérieure de Droit et d’Administration); Khoa học thực hành (Ecole supérieure des Sciences appliquées); Y khoa Đông Dương (Ecole de Médecine de l’Indochine); Xây dựng dân dụng (Ecole supérieure du Génie Civil) và Văn khoa (Ecole supérieure des Lettres). Những trường này có trụ sở tại Hà Nội hoặc Sài Gòn. Một số trường có phạm vi hoạt động ở cả hai thành phố. Để đảm bảo tính liên thông và phối hợp giữa các trường thành viên, điều 5 của Nghị định ghi rõ: “Mỗi sinh viên được đăng kí vào một trường cao đẳng, trừ trường hợp đặc biệt nhưng sẽ có một số môn học chung cho hai hoặc nhiều trường”.

Đại học Đông Dương có cơ chế phối hợp chặt chẽ với các viện nghiên cứu và giáo dục đã hoặc sẽ được thành lập ở Đông Dương, nhưng không làm ảnh hưởng tới quyền tự quyết của những cơ quan đó.

Sinh viên thuộc một trong 5 xứ Đông Dương chỉ được nhận vào Đại học Đông Dương khi có bằng tú tài bản xứ hoặc chứng chỉ tương đương (cử nhân, ấm sinh, tôn sinh...). Ngoài ra, Đại học Đông Dương còn nhận thêm người nước ngoài, là công dân của nước Pháp và được Pháp bảo hộ.

Chương trình học do Hội đồng quản trị soạn thảo và trình Toàn quyền thông qua. Hàng năm, Toàn quyền quy định bằng nghị định một số vị trí tham gia Phái đoàn thường trực Đông Dương (Mission permanente Indochinoise) công tác tại Pháp. Vị trí này dành cho những sinh viên do Hội đồng Quản trị Đại học Đông Dương lựa chọn. Việc mở lớp học hoặc các cuộc hội thảo đặc biệt do Phòng Thương mại hoặc Phòng Canh nông hay các hiệp hội khoa học đặt tại Đông Dương tài trợ.

Một năm sau ngày Nghị định số 1514a được ban hành, Toàn quyền Đông Dương đã ký một số văn bản khác để điều chỉnh cơ cấu tổ chức và hoạt động của Đại học Đông Dương như Nghị định ngày 8-5-1907 chuyển quyền điều hành ĐHĐD từ Hội đồng Quản trị sang Giám đốc Nha Học chính Đông Dương với sự trợ giúp của Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương (Conseil de Perfectionnement de l’Université indochinoise). Thành phần của Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương theo Nghị định ngày 8-5-1907 bao gồm Giám đốc các trung tâm khoa học tại Đông Dương, đại diện của những người đứng đầu chính quyền địa phương và cơ quan kĩ thuật có liên quan. Thành phần này sau đó được cụ thể rõ bằng Nghị định ngày 27-5-1907, gồm: Giám đốc Nha Học chính Đông Dương (Chủ tịch); Hiệu trưởng Trường Viễn đông Bác cổ (Phó Chủ tịch); Hiệu trưởng Trường Y khoa Đông Dương; đại diện của Toàn quyền Đông Dương; đại diện của Thống sứ Bắc Kỳ; đại diện của Biện lý, Giám đốc Nha Tư pháp và đại diện của Giám đốc Nha Công chính.

Nghị định ngày 8-5-1907 và 27-5-1907 thể hiện rõ vai trò đặc biệt của Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương trong việc tư vấn, đề xuất ý kiến để Toàn quyền quyết định cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa Đại học Đông Dương với các viện nghiên cứu và giáo dục đã hoặc sẽ thành lập ở Đông Dương về mặt nhân sự (điều kiện làm việc cũng như thù lao của nhân sự thuộc các cơ quan này và đội ngũ giảng viên mượn từ các cơ quan khác). Ngoài ra, các lớp học của Đại học Đông Dương cũng như phòng thí nghiệm được sáp nhập vào Đại học Đông Dương đều phải do Toàn quyền quy định, theo đề nghị của Giám đốc Nha Học chính, sau khi có ý kiến của Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương.

Các lớp học của Đại học Đông Dương chính thức khai giảng từ ngày mồng 1-11-1907 theo ấn định của Nghị định ngày 24-9-1907 do Toàn quyền Đông Dương ký ban hành  với các môn học: toán; cơ học và vũ trụ học; vật lý; hoá học đại cương; hoá công nghiệp và công nghệ; động vật học; thực vật học; địa chất học; sinh lý học và vệ sinh; tiếng Pháp; văn học Pháp; lịch sử đại cương; địa lý đại cương; lịch sử Đông Dương và khu vực Viễn Đông, địa lý Đông Dương và Viễn Đông; lịch sử triết học; luật nước Pháp; pháp luật và chính quyền An-nam; kinh tế chính trị và luật thương mại; giáo dục đại cương; giáo dục thực hành.

Ngoài ra, Đại học Đông Dương còn có thêm 3 phòng thí nghiệm thực hành về vật lý, hoá học và khoa học tự nhiên. Theo quy định, chỉ những sinh viên ghi danh trong điều kiện quy định tại điều 4 của Nghị định ngày 16-5-1906 mới được tham gia thực hành và ra vào thư viện. Giám đốc Nha Học chính cũng có thể cấp thẻ học viên dự thính cho những người Âu và Á có đủ trình độ tiếng Pháp, theo đề nghị của Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương.

Cùng ngày 24-9-1907, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định về việc bổ nhiệm giảng viên Đại học Đông Dương trong đó quy định rõ thời gian và danh sách cụ thể các giảng viên chịu trách nhiệm giảng dạy các môn học và các môn thực hành.

Sau khi đã có những văn bản mang tính pháp lý của Toàn quyền Đông Dương về việc thành lập, cơ cấu tổ chức, đội ngũ giảng viên, ngày khai giảng chính thức cùng những môn học chính, về phần mình, Đại học Đông Dương bắt đầu ban hành Nội quy và chương trình học cho niên khóa đầu tiên của mình (niên khóa 1907-1908).

Theo Nội quy, những người châu Á có nhu cầu theo học tại các trường thuộc Đại học Đông Dương phải gửi đơn xin nhập học đến Ban Thư ký Đại học Đông Dương có trụ sở đặt tại số 40 đại lộ Gia Long (Hà Nội) trong đó nêu rõ tên, tuổi, địa chỉ, nghề nghiệp, bằng cấp, ban và các lớp thực hành mà họ muốn theo học.

Đối tượng được quy định có đủ điều kiện nhập học gồm:

- Những người tốt nghiệp Trường Trung học Chasseloup - Laubat hoặc có bằng bổ túc;

- Những người có bằng cử nhân hoặc tú tài bản xứ, đủ trình độ tiếng Pháp;

- Những người không có bất kỳ chứng chỉ, văn bằng nào cũng được nhận vào trường nếu được Hội đồng Hoàn thiện Đại học Đông Dương chấp thuận.

Nội quy của Đại học Đông Dương quy định các ban học và điều kiện theo học của sinh viên. Theo đó, có 3 ban là ban Văn học, ban Luật và ban Khoa học. Những sinh viên đăng ký vào ban Văn học phải theo ít nhất là 5 lớp văn học. Sinh viên ban Khoa học cũng phải theo học tối thiểu 5 lớp khoa học. Sinh viên ban Luật theo học tất cả các lớp luật và ít nhất là 1 lớp văn học. Tất cả các sinh viên đều phải học tiếng Pháp, họ cũng có thể đăng ký vào những lớp khác thậm chí là vào một ban khác.

Các lớp thực hành chỉ dành riêng cho sinh viên ban Khoa học.

Đối với một số lớp học, những người có đơn gửi Ban Thư ký Đại học Đông Dương được cấp thẻ dự thính miễn phí. Học viên dự thính không được phép vào thư viện cũng như tham gia các lớp thực hành.

Chương trình học năm 1907-1908 của Đại học Đông Dương được quy định như sau:

- Ban Khoa học gồm có: toán học; cơ khí; vật lý; hoá học đại cương; hoá học công nghiệp và công nghệ; thực vật học; động vật học; sinh lý học.

- Ban Văn học: tiếng Pháp; văn học Pháp; giáo dục học đại cương; lịch sử triết học; lịch sử đại cương; lịch sử Đông Dương và Viễn Đông; địa lý đại cương.

- Ban Luật: pháp luật Pháp; kinh tế chính trị và luật thương mại; tổ chức hành chính Đông Dương.

Thời gian biểu chi tiết dưới đây đã được công bố cho niên khóa 1907-1908.

Ngày

Giờ

Giảng viên

Môn học

 

 

Thứ 2

5g15 - 6g15

Ông Barbotin (kỹ sư về Nghệ thuật và Chế tạo máy, Giám đốc Trường dạy nghề Hà Nội)

Hóa công nghiệp và kỹ nghệ.

6g15 - 7g15

Ông Maybon (giảng viên Trường Viễn đông Bác cổ Pháp, Giám đốc Trường Pavie)

Lịch sử Đông Dương và Viễn Đông.

8g45 - 9g45

Ông Prêtre (quản lý hành chính hạng nhất Sở Quản lý các công việc dân sự, phụ tá Thống sứ Bắc Kỳ)

Tổ chức hành chính Đông Dương.

 

Thứ 3

5g15 - 6g15

Ông Eberhardt (Tiến sĩ khoa học, Thanh tra nông nghiệp, nguyên điều chế viên thực vật Khoa Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Paris)

Động vật học

Ông E. Maître (Thạc sĩ Triết học, Giám đốc Trường Viễn đông Bác cổ Pháp)

Lịch sử triết học

6g15 - 7g15

Ông Rieus (kỹ sư về Nghệ thuật và Chế tạo máy, Giáo sư Trường Giao thông Công chính)

Toán

Ông Russier (Tiến sĩ khoa học, Trưởng ban Thư ký Sở Học chính Đông Dương)

Lịch sử đại cương

 

Thứ 4

1 - 2

Ông Eberhardt (Tiến sĩ khoa học, Thanh tra nông nghiệp, nguyên điều chế viên thực vật Khoa Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Paris)

Thực hành về động vật học

5g15 - 6g15

Ông Péri (thành viên Trường Viễn đông Bác cổ Pháp)

Văn học Pháp

6g15 - 7g15

Ông Audhuy (bác sĩ)

Vật lý và thực hành

8g45 - 9h45

Ông Delestré (Thẩm phán thay biện lý của Tổng Kiểm sát trưởng Đông Dương)

Kinh tế chính trị và luật thương mại

 

Thứ 5

1 - 2

Ông Eberhardt (Tiến sĩ khoa học, Thanh tra nông nghiệp, nguyên điều chế viên thực vật Khoa Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Paris)

Thực hành về thực vật học

2 - 3

Ông Bloch (Dược sĩ quân y, nguyên điều chế vieenhoas học Trường Cao đẳng Dược Nancy)

Thực hành về hóa học đại cương

3 - 4

Ông Barbotin (kỹ sư về Nghệ thuật và Chế tạo máy, Giám đốc Trường dạy nghề Hà Nội)

Thực hành về hóa công nghiệp

4 - 5

Ông Gourdon (Tổng Giám đốc Sở Học chính Đông Dương)

Giáo dục học đại cương

Thứ 6

5g15- 6g15

Ông Péri (thành viên Trường Viễn đông Bác cổ Pháp)

Tiếng Pháp

6g15- 7g15

Ông Bloch (Dược sĩ quân y, nguyên điều chế vieenhoas học Trường Cao đẳng Dược Nancy)

Hóa học đại cương

8g45 - 9g45

Ông Dartiguenave (Chủ tịch Tòa án dân sự Hà Nội)

Luật nước Pháp

Thứ 7

5g15 - 6g15

Ông Eberhardt (Tiến sĩ khoa học, Thanh tra nông nghiệp, nguyên điều chế viên thực vật Khoa Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Paris)

Thực vật học

 

Ông Russier (Tiến sĩ khoa học, Trưởng ban Thư ký Sở Học chính Đông Dương)

Địa lý đại cương

6g15- 7g15

Ông Dumas (bác sĩ chính trong quân đội thuộc địa, Trưởng Quân y viện ở Hà Nội)

Sinh lý học và vệ sinh

 

Ông Rieus (kỹ sư về Nghệ thuật và Chế tạo máy, Giáo sư Trường Giao thông Công chính)

Cơ khí

Ngày 10-11-1907, sau khi các điều kiện chuẩn bị đã hoàn tất, lễ khánh thành Đại học Đông Dương đã được tổ chức tại Phủ Toàn quyền cũ (trong khu nhượng địa) ở Hà Nội, dưới sự chủ tọa của Thống sứ Bắc Kỳ De Miribel . Và đến cuối tháng 11-1907, Đại học Đông Dương tổ chức lễ khai giảng đầu tiên với sự có mặt của 94 sinh viên chính thức, 62 sinh viên dự thính và 37 sinh viên năm thứ nhất trường Y sẽ tham dự một số giờ học của môn khoa học, tổng cộng gồm 193 sinh viên. Trong năm học đầu tiên này, một số viên chức các sở chuyên môn tại Hà Nội tuy không theo học chính thức nhưng cũng được phép tham gia các giờ thực hành tại các trường thuộc Đại học Đông Dương  .

Vì nhiều lý do, con số sinh viên mới ngày càng giảm dần, từ 94 còn 68 (tháng 12-1907) và sau Tết Nguyên đán còn 46 và cho đến cuối năm học, số sinh viên chính thức chỉ còn lại chưa đến một nửa số sinh viên ban đầu (41 người). Sau khi năm học đầu tiên kết thúc, ĐHĐD đã đột ngột đóng cửa, không một lời giải thích của bất cứ một vị quan chức nào trong bộ máy chính quyền thuộc địa và cũng không bởi bất cứ một văn bản nào của các cấp có thẩm quyền trong hệ thống chính quyền thực dân.

Tài liệu lưu trữ cho thấy, mặc dù chính quyền thuộc địa đã cố gắng trong việc củng cố tổ chức của Đại học Đông Dương nhằm kéo dài hoạt động của nó, thông qua việc ban hành một vài văn bản pháp quy như hai Nghị định cùng ngày 17-2-1908 về thành lập chức danh Thư ký Đại học Đông Dương đồng thời giao nhiệm vụ này cho Russier Henri (Trưởng phòng Thư ký của Sở Học chính Bắc Việt)  và Nghị định ngày 29-4-1908 về việc chỉ định giảng viên dự khuyết tại Đại học Đông Dương  song hầu như không đem lại kết quả.

Tuy nhiên, tài liệu lưu trữ cũng cho thấy, trong suốt thời kỳ từ 1908 đến đầu 1917, một số trường thành viên của Đại học Đông Dương vẫn tiếp tục hoạt động và cùng với một số trường mới được thành lập, những trường này tiếp tục nằm trong hệ thống các trường thành viên của ĐHĐD trong thời kỳ tiếp theo.

2. Đại học Đông Dương thời kỳ1917-1945

Chương trình cải cách giáo dục lần thứ hai chính thức được bắt đầu ngày 21-12-1917 bằng Nghị định ban hành bộ “Học chính tổng quy” (Règlement général de l’Instruction publique) của Toàn quyền Albert Sarraut với 7 chương, 558 điều , chia nền giáo dục công tại Đông Dương làm 2 hệ thống (giáo dục phổ thông và dạy nghề), trong đó giáo dục công tại các trường Pháp - Việt được chia thành 3 cấp:

+ Đệ nhất cấp tức hệ tiểu học (enseignement primaire), bao gồm các trường tiểu học toàn cấp (Ecole Primaire de plein exercice) và các trường sơ đẳng tiểu học (Ecole Primaire Elémentaire).

+ Đệ nhị cấp tức hệ trung học (enseignement secondaire) gồm cao đẳng tiểu học, học trong 4 năm để thi lấy bằng cao đẳng tiểu học (bằng Thành chung hay Diplôme) và trung học, học trong 2 năm để thi lấy bằng Tú tài (Diplôme de bachelier).     

 Toàn bộ các trường tiểu học và trung học đều nằm trong hệ thống các trường Pháp-Việt, chương trình giảng dạy được quy định cụ thể trong bộ “Học chính tổng quy”. Việc miễn phí đối với các trường tiểu học công được quy định tại cuộc cải cách giáo dục năm 1906 vẫn được giữ nguyên.

Bên cạnh các trường tiểu học và trung học nằm trong hệ thống các trường Pháp - Việt còn có một số trường thuộc hệ thống trường Pháp, chủ yếu dành cho con em người Pháp sống tại thuộc địa và một số ít con em thuộc các gia đình thượng lưu người bản xứ.

Theo quy định của bộ “Học chính tổng quy”, các trường dạy nghề có tính chất chuyên nghiệp đã được thành lập từ giai đoạn trước nhằm đào tạo một đội ngũ công chức người bản xứ bậc thấp, đáp ứng nhu cầu của công cuộc xây dựng và khai thác thuộc địa của người Pháp như Trường Hậu bổ Hà Nội (Ecole d’Administration de Hanoï) thành lập năm 1897, Trường Dạy nghề Hà Nội (Ecole professionelle de Hanoï) do Phòng Thương mại Hà Nội lập ra vào năm 1898, Trường Công chính (Ecole des Travaux Publics) thành lập năm 1902 và Trường Y khoa Hà Nội (Ecole de Médecine de Hanoï) năm 1902... đều nằm trong hệ thống các trường dạy nghề hai cấp thuộc giáo dục phổ thông (đệ nhất cấp và đệ nhị cấp). Kinh phí hoạt động của các trường này do ngân sách địa phương hoặc ngân sách hàng tỉnh, thành phố hoặc hàng xã cấp, đặt dưới sự giám sát về phương diện hành chính của các chủ tỉnh. Thống đốc Nam Kỳ, các Khâm sứ và Thống sứ quyết định việc thành lập trường đệ nhất cấp và quy định chi tiết cách thức tổ chức của các trường cũng như việc tuyển giáo viên cho các trường, theo đề nghị của Thanh tra giáo dục nghề có thẩm quyền.

- Đệ tam cấp (hệ cao đẳng) gồm các trường cao đẳng đã được thành lập từ trước và các trường chuẩn bị được thành lập tại Đông Dương. Theo quy định của bộ “Học chính tổng quy”, Ban chỉ đạo Giáo dục bậc cao đẳng được thành lập với nhiệm vụ tập trung và giải quyết công việc hành chính của tất cả các trường thuộc Đại học Đông Dương, chuẩn bị việc thành lập, tổ chức chế độ làm việc và soạn thảo chương trình của các trường cao đẳng lần lượt được mở cho sinh viên người Pháp và người bản xứ tại Đông Dương. Bộ “Học chính tổng quy” cũng có một số quy định cụ thể: Trường Hậu bổ (Ecole d’Administration) ở Huế và Trường Sĩ hoạn (Ecole des Mandarins) ở Hà Nội là những trường chuyên đào tạo quan lại sẽ chấm dứt hoạt động ngay sau khi những học sinh nhập học trước ngày 1-11-1917 kết thúc khoá học; các trường này cũng sẽ không được tuyển mới kể từ ngày trên. Các lớp luật (Cours de Droit) thành lập theo Nghị định ngày 29-3-1910 cũng bị bãi bỏ; hai trường vẫn được hoạt động bình thường là Trường Y khoa Đông Dương (Ecole de Médecine de l’Indochine) thành lập theo Nghị định ngày 29-12-1913) và Trường Thú y Đông Dương (Ecole Supérieure Vétérinaire de l’Indochine) thành lập theo Nghị định ngày 15-9-1917; Trường Công chính (Ecole des Travaux publics) được tổ chức lại theo Nghị định ngày 15-4-1913 thì được đặt dưới quyền giám sát trực tiếp của Ban chỉ đạo bậc cao đẳng…

Ở bậc đại học, từ những quy định sơ lược trong bộ “Học chính tổng quy”, Đại học Đông Dương đã được hoàn thiện thêm về mặt cơ cấu, tổ chức và đội ngũ giáo viên, kể cả giáo viên người Pháp và người bản xứ. Điều đó được thể hiện trong hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định các ngày 8-7-1917, 25-8-1918, 13-12-1923, 17-10-1924, 8-5-1926, 2-7-1926, 19-10-1927, 26-4-1928, 4-11-1928, 31-7-1929 và 30-11-1930 của Toàn quyền Albert Sarraut, trong đó quan trọng nhất là hai Nghị định đầu tiên.

Nghị định thứ nhất ngày 8-7-1917 quyết định thành lập Ban Chỉ đạo bậc cao đẳng (Direction de l’Enseignement supérieur)bên cạnh Toàn quyềnvới nhiệm vụ “chuẩn bị việc thành lập, tổ chức và ban hành chương trình của các trường cao đẳng sẽ mở tại Đông Dương thuộc Đại học Đông Dương cho sinh viên người Pháp và người bản xứ” . Toàn bộ các trường này sẽ tập trung lại thành ĐHĐD, bao gồm một số trường thành viên của Đại học Đông Dương đã được thành lập như Trường Cao đẳng Sư phạm (Ecole supérieure de Pédagogie) thành lập theo Nghị định ngày 15-10-1917 và được tổ chức lại theo Nghị định ngày 24-7-1932, Trường Khoa học thực hành (Ecole des sciences appliquées) được thành lập theo Nghị định ngày 30-10-1922, Trường Cao đẳng Văn khoa với các giờ dạy và hội thảo dành cho công chúng (Ecole supérieure des Lettres - cours et conférences publics) được thành lập theo Nghị định ngày 26-7-1923, Trường Mỹ thuật Đông Dương (Ecole des Beaux-Arts de l’Indochine) được thành lập theo Nghị định ngày 17-10-1924 (năm 1938 được tổ chức lại thành Trường Mỹ thuật và Mỹ nghệ thực hành (Ecole des Beaux-Arts et des Arts appliquées), Trường Cao đẳng Luật Hà Nội (Ecole supérieure de Droit de Hanoï) được thành lập theo Sắc lệnh ngày 11-11-1931 của Tổng thống Pháp …

Về mặt tổ chức, trong thời kỳ đầu, Tổng Giám đốc Học chính Đông Dương giữ chức vụ Giám đốc Ban Chỉ đạo bậc cao đẳng, là người “trực tiếp quản lý nhân viên các trường cao đẳng ở Đông Dương”, “chịu trách nhiệm điều hành các trường” và là người “trực tiếp liên hệ với Toàn quyền trong việc giải quyết những biện pháp cụ thể nhằm đảm bảo sự hoạt động tốt và phát triển bình thường của các cơ sở dưới quyền mình quản lý”. Trực tiếp dưới quyền Tổng Giám đốc Học chính có các quân nhân ngoại hạng giữ chức danh các Giám thị nội trú (có Tổng Giám thị và các Giám thị).

Nghị định thứ hai ngày 25-12-1918 ban hành Quy chế chung về giáo dục bậc đại học ở Đông Dương (Règlement général de l’Enseignement supérieur) .Theo Nghị định này, ĐHĐD được đặt trong Ban Chỉ đạo bậc cao đẳng(ban hành bởi Nghị định ngày 8-7-1917)và sau đó không ngừng được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với thực tế . Đây là một văn bản có tính chất pháp lý quan trọng đối với giáo dục bậc đại học ở Đông Dương nói chung và tổ chức của ĐHĐD nói riêng. Cũng theo Nghị định ngày 25-12-1918, Ban Chỉ đạo bậc cao đẳng được tổ chức lại dưới quyền của Tiến sĩ Cognacq Maurice, người được Toàn quyền bổ nhiệm làm Giám đốc.

Tuy nhiên, Ban Chỉ đạo bậc cao đẳng lại là một đơn vị dưới quyền trực tiếp của Tổng Thanh tra Học chính Đông Dương (Inspection générale de l’Instruction publique) , cơ quan được đặt dưới quyền chỉ đạo tối cao của Toàn quyền. Trong khi đó, Tổng Giám đốc Học chính cũng trực thuộc Toàn quyền. Vì thế, trong việc điều hành chuyên môn về giáo dục, đặc biệt ở bậc đại học, đã có nhiều bất cập xảy ra. Vấn đề này không phải chỉ diễn ra với riêng ngành giáo dục ở thời kỳ này mà nó còn tồn tại dai dẳng ở nhiều ngành khác nữa . Điều này tất yếu dẫn đến việc phải xem xét lại chức năng, quyền hạn của những người đứng đầu các cơ quan giáo dục, nhất là Tổng Giám đốc Học chính. Kết quả là, đến năm 1922, giáo dục bậc đại học đã được đặt dưới quyền trực tiếp của Tổng Giám đốc Học chính Đông Dương. Theo đó, ĐHĐD lại được đặt trở lại dưới quyền chỉ đạo trực tiếp của nhân vật có chức danh cao nhất trong hệ thống giáo dục ở Đông Dương.

Trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử, từ một bộ phận rất nhỏ hoạt động dưới sự quản lý của Ban 2, Phòng 1 trực thuộc Văn phòng Ban Giám đốc Sở Học chính Đông  Dương (năm 1922), Văn phòng  Đại học Đông Dương đã được thành lập nhưng vẫn là một đơn vị thuộc Phòng 1 của Văn phòng Ban Giám đốc (năm 1928). Mãi cho đến năm 1938, Văn phòng  Đại học Đông Dương mới được tách ra để hoạt động với tư cách là một đơn vị độc lập. Lúc này, Văn phòng Đại học Đông Dương được đặt dưới quyền trực tiếp của Tổng Giám đốc Học chính. Chánh Văn phòng có chức danh là Thư ký ĐHĐD (Secrétaire de l’Université indochinoise), người phải đảm nhiệm cùng một lúc hai nhiệm vụ của hai chức danh: Thư ký và Tổng Giám thị Đại học Đông Dương. Ban đầu, chức năng và nhiệm vụ của Thư ký ĐHĐD được quy định như sau:

- Đảm nhiệm chức năng, nhiệm vụ của ban Thư ký các trường Cao đẳng Y và Luật của Hà Nội;

- Quản lý các trường khác thuộc Đại học Đông Dương …

Tuy nhiên, hoạt động chưa đầy một năm thì Văn phòng ĐHĐD đã được cải tổ lại nhằm mục đích làm cho nó trở thành một đơn vị “có quyền tự do lớn hơn” . Thư ký Đại học Đông Dương được bổ sung thêm nhiều quyền hạn nữa, từ quản lý, chỉ đạo việc nghiên cứu tất cả các vấn đề về hành chính, sư phạm và chuyên môn, các tranh chấp liên quan đến giảng dạy đến việc học tập và học bổng của sinh viên trong các trường thuộc ĐHĐD hay việc quan hệ với các cơ quan kỹ thuật, quan hệ với các trường đại học ở chính quốc và ở nước ngoài…

Như vậy là, mặc dù trực thuộc Tổng Giám đốc Học chính nhưng trên thực tế, về mặt tổ chức, Đại học Đông Dương đã trở thành một đơn vị độc lập, có tư cách pháp nhân với một hệ thống các trường thành viên ngày càng được nâng cao về cả số lượng lẫn chất lượng.

Từ năm 1930, cơ cấu tổ chức của Đại học Đông Dương ngày càng hoàn thiện với hệ thống Thư viện  (được tổ chức theo Nghị định ngày 24-5-1930) và Hội đồng kỷ luật (được thành lập theo Nghị định ngày 21-2-1936). Ngoài ra, Phòng thí nghiệm vật lý và hóa học và Phòng thí nghiệm của các môn khoa học tự nhiên thuộc Đại học Đông Dương cũng được đưa vào hoạt động nền nếp. Một số trường thành viên mới cũng được thành lập như Học viện Nghiên cứu Luật pháp và Xã hội Viễn đông (Institut des Hautes Etudes Juridiques et Sociales d’Extrême-Orient) thành lập theo Sắc lệnh ngày 27-4-1940 của Tổng thống Pháp ; Trường Cao đẳng Khoa học (Ecole supérieure des Sciences) được thành lập theo Sắc lệnh ngày 25-7-1941 của Tổng thống Pháp.Trường được tổ chức theo kiểu mẫu của trường Đại học Khoa học của Pháp nhưng với hai thể thức đặc biệt ở Đông Dương nhằm mục đích đảm bảo cho sinh viên nắm được kiến thức chung để theo học được chương trình giảng dạy của Trường. Một là các kỳ thi thử vào đầu các năm học kể từ khi khai giảng năm học đầu tiên cho đến tận năm 1944 và hai là tạo điều kiện để sinh viên có thể có, ngoài bằng cử nhân được quy định phải chuẩn bị trong 2 năm ra, một trong số các chứng chỉ nghiên cứu dự bị (certificats d’études supérieures préparatoires) về các môn học như toán đại cương (mathématiques générales), S.P.C.N (Sciences physiques, chimiques et naturelles) vµ M.P.C (mathématiques, physique, chimie) . Đây là một sự kiện rất có ý nghĩa, như Tổng Giám đốc Học chính Đông Dương đã khẳng định trong bài diễn văn đọc tại lễ khai giảng năm học 1942-1943: “Việc thành lập Trường Cao ®¼ng Khoa häc đã đánh dấu một cái mốc trong nền đại học và khoa học Đông Dương” .

Trong thời gian này, hàng loạt các trường thành viên của Đại học Đông Dương được nâng cấp, điều đó rất có ý nghĩa đối với vị thế của Đại học Đông Dương. Năm 1941: Trường Kiêm bị Y Dược Đông Dương được nâng cấp lên thành Trường Đại học Y khoa Đông Dương, sinh viên tốt nghiệp trường này được cấp bằng Bác sĩ Y khoa hoặc Dược sĩ cao cấp Đông Dương; Trường Cao đẳng Luật được nâng lên thành Trường Đại học Luật Đông Dương. Năm 1942: Trường Cao đẳng Nông Lâm được nâng cấp thành Trường Đại học, có nhiệm vụ đào tạo kỹ sư nông nghiệp và lâm nghiệp; Trường Cao đẳng Công chính được nâng lên thành trường đại học, được phép đào tạo kỹ sư và phó kỹ sư công chính (Ingénieur et ingénieur-adjoint indochinois des Travaux publics). Cũng trong năm 1942, Trường Mỹ thuật và Trường Mỹ nghệ thực hành được tách thành hai trường là Trường Cao đẳng Mỹ thuật thuộc khối đại học và Trường Mỹ nghệ thực hành. Năm 1943, Trường Cao đẳng Mỹ thuật (Ecole des Beaux-Ats) được tổ chức lại và được phép đào tạo ở bậc đại học tương đương với trình độ đại học ở Pháp.

Ngoài ra, một số ngành mới như Dân tộc học, Đông phương học, Khảo cổ học… cũng được thành lập tại Trường Cao đẳng Văn khoa làm cho cơ cấu của Đại học Đông Dương ngày càng trở nên đa ngành, đa lĩnh vực rõ nét hơn.

Thời kỳ này, cơ sở vật chất cho Đại học Đông Dương được chính quyền thuộc địa quan tâm trang bị tới 3 lần:

- Lần đầu tiênvào năm 1913,công trình Trường Đại học Đông Dương được khởi công xây dựng trên đường Bobillot , ở điểm giao nhau giữa đường Bobillot với điểm kết thúc của trục đường Carreau . Đây là một công trình lớn với nhiều hạng mục, được xây dựng qua 3 giai đoạn. Giai đoạn một bắt đầu từ năm 1913 và kết thúc vào năm 1922 với việc khởi công xây dựng khu nhà cánh trái (Trường Y) ; giai đoạn 2 bắt đầu bằng khu nhà cánh phải được xây dựng từ năm 1921 đến năm 1923. Sau đó, 2 giảng đường mới được xây dựng dành cho khoa Luật năm vào năm 1933-1937; giai đoạn 3 bắt đầu từ 1920 và kết thúc vào năm 1923 với khu nhà chính có 1 giảng đường lớn; giai đoạn cuối kéo dài từ 1928 đến năm 1945 với việc xây thêm sân tennis, tường rào, hệ thống cống và cải tạo một số hạng mục khác để tập trung một số trường đại học và cao đẳng khác vào Đại học Đông Dương  .

- Lần thứ hai vào năm 1917, trong khi chờ đợi công trình chính, Toàn quyền Đông Dương đã ký Quyết định số 783 ngày 31-12-1917 cho phép tiến hành cải tạo các tòa nhà củagia đình Debeaux ở số 47 phố Paul Bert và số 22, 24 đại lộ Rollandes  để bố trí một số trường học mới thuộc Đại học Đông Dương  .

- Lần cuối cùng, ngày 15-6-1942, Toàn quyền Decoux đã ký Nghị định số 223/Dphê chuẩn các quy định về việc quy hoạch Khu Học xá Đông Dương (Cité Universitaire de l’Indochine)  gồm một phần nằm trong huyện Hoàn Long và một phần nằm trong địa hạt của thành phố Hà Nội . Theo dự tính, Khu Học xá Đông Dương sẽ đón được khoảng 320 sinh viên và sẽ không thua kém gì khu nội trú của các trường đại học ở Paris. Nhưng sau đó, sự kiện Nhật đảo chính Pháp đã xẩy ra. Tiếp đó là cuộc tổng khởi nghĩa của Việt Minh đã giành được thắng lợi. Công trình xây dựng Khu Học xá Đông Dương vì thế không thể tiếp tục được nữa và đã trở thành công trình xây dựng cuối cùng của chính quyền thực dân trên đất Hà Nội.

3. Đại học Đông Dương thời kỳ 1945-1954

Sau khi bị Nhật đảo chính (ngày 9-3-1945), người Pháp tuy bị thất thế ở Đông Dương nhưng trong tuyên bố ngày 24-3-1945, chính phủ Pháp ở chính quốc vẫn khẳng định: “Liên hiệp Pháp sẽ tiến hành các biện pháp cần thiết để làm cho nền giáo dục bậc tiểu học trở thành bắt buộc và có hiệu quả và để phát triển nền giáo dục trung học và đại học” .

Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình mới, chính quyền ở thuộc địa buộc phải có những thay đổi trong chính sách chính trị của mình. Chức danh Toàn quyền Đông Dương bị xóa bỏ và thay vào đó là Cao ủy Pháp ở Đông Dương (Haut Commissaire de France en Indochine) . Phủ Cao ủy Pháp và trụ sở của nhiều công sở hành chính của chính quyền thuộc địa đã chuyển vào Sài Gòn nhưng ĐHĐD vẫn ở lại Hà Nội và do ông Bayen làm Hiệu trưởng (Recteur).

Về mặt tổ chức, bắt đầu từ ngày 1-8-1947, Đại học Đông Dương được đặt trong Phòng Giáo dục đại học, một đơn vị trực thuộc Ban Cố vấn về giáo dục thuộc Phủ Cao ủy . Ông Brunel được bổ nhiệm làm Giám đốc Trường Cao đẳng Khoa học thay cho ông Richaud và ông Lafon, Thư ký của Sở Học chính được bổ nhiệm làm Chánh Văn phòng Giáo dục đại học thay cho ông Lebris. 

Về giáo dục đại học có các cố vấn: Ông Kherian (Chủ nhiệm khoa Luật); Bonneman (Giám đốc Trường Cao đẳng Khoa học - Ecole supérieure des Sciences);Richard (Giám đốc Trung tâm Médico Pharmacetique) và Lebris (Giáo sư chính ngoại hạng thuộc Văn phòng Giáo dục đại học - Bureau de l’Enseignement supérieur).

Tháng giêng năm 1948, Cao ủy Pháp đã ký một Nghị định thành lập một Hội đồng trường Đại học Đông Dương do Hiệu trưởng Đại học Đông Dương làm Chủ tịch với thành phần gồm các Giám đốc của các trường thành viên, hai giáo sư do các trường bầu ra hoặc bỏ phiếu kín, Giám đốc Trường Viễn đông Bác cổ và các thành viên không thuộc nhân sự của Đại học Đông Dương do Hội đồng lựa chọn và do Hiệu trưởng Đại học Đông Dương bổ nhiệm trong 3 năm. Hội đồng có quyền quyết định tất cả các vấn đề về tổ chức thực hiện, tổ chức giảng dạy và về tất cả các công việc thuộc về kỷ luật .

Ngày 30-12-1949, theo thỏa ước về văn hóa được ký kết giữa chính phủ Pháp và chính phủ Bảo Đại, Trường Đại học hỗn hợp Pháp-Việt đã được thành lập trên cơ sở của Đại học Đông Dương ở Hà Nội và vẫn do ông Bayen là Hiệu trưởng. Về mặt pháp lý, Trường Đại học hỗn hợp Pháp - Việt được thành lập nhưng trên thực tế, nó chưa bao giờ hoạt động mà vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức của Đại học Đông Dương với hệ thống các trường thành viên trước kia.

Đầu năm 1951, Đại học Đông Dương có Hiệu trưởng mới. Đó là ông Champy, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Y Paris đến Hà Nội thay cho ông Bayen trở về Pháp sau nhiều năm giữ cương vị người đứng đầu một trường đại học danh tiếng của Pháp ở Đông Dương. Người ta hy vọng rằng, vị Hiệu trưởng mới này của ĐHĐD sẽ là người đầu tiên làm cho Trường Đại học Hỗn hợp Pháp-Việt hoạt động theo tinh thần của những ký kết Pháp-Việt, người sẽ làm cho Trường trở thành “một trung tâm tỏa sáng ở Đông Nam Á và là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh châu Âu và Viễn Đông” . Bản thân ông Champy cũng tuyên bố trước báo chí tại cuộc họp do tướng De Lattre de Tassigny tổ chức tại Hà Nội ngày 22-1-11951 rằng:

“Tôi quyết định thực hiện ở nơi đây một trường đại học châu Âu thực sự. Mọi yếu tố đã có sẵn, đó là trường Đại học Hà Nội, tổ chức tạo nên nền tảng của cơ cấu này. Trường Đại học Hà Nội đã tỏa sáng rực rỡ trên thế giới và đã nổi tiếng, nhất là về nghiên cứu các bệnh nhiệt đới.

Chúng tôi mong rằng, Trường Đại học Hà Nội sẽ là nền tảng của sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam và cũng là nền tảng của tình hữu nghị lâu đời giữa Việt Nam và Pháp” .

  Trong suốt thời kỳ từ 1946 đến 1953, mặc dù tình hình chính trị ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng có nhiều biến động nhưng Đại học Đông Dương vẫn không ngừng phát triển với sự thành lập các đơn vị mới như phân hiệu của Đại học Luật ở Sài Gòn (thành lập theo Nghị định ngày 9-5-1947 của Cao ủy Pháp ở Đông Dương) , Phòng thí nghiệm vật lý của Trường Cao đẳng Khoa học ở Hà Nội (mở theo Nghị định số 327/3875ngày 23-11-1947của Cao ủy Pháp … và đặc biệt theo Nghị định liên bộ ngày 8-3-1948, Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt (Ecole supérieure d’Architecture de Dalat) đã được thành lập, thời gian học trong 3 năm với chương trình giảng dạy giống hệt như các trường Kiến trúc các vùng ở chính quốc (Ecoles Régionalesd’Architecture métropolitaines). Trường tiếp nhận tất cả các chương trình thực hành và thi cử của Trường Đại học Mỹ thuật Quốc gia Ở Paris. Về mặt tổ chức, Trường Cao đẳng Kiến trúc Đà Lạt được xếp vào khối các trường thuộc Đại học Đông Dương, Giám đốc của Trường có quan hệ trực tiếp với Giám đốc Trường Đại học Mỹ thuật Quốc gia ở Hà Nội (Ecole Nationale Supérieure des Beaux-Arts). Trường được tổ chức lại theo Nghị định ngày 1-6-1949 .Số lượng sinh viên theo học tại các trường thuộc Đại học Đông Dương cũng tăng lên đáng kể, chỉ tính riêng cơ sở Hà Nội đã có 966 người (trong năm học 1949-1950), tăng lên 1.329 người (năm học 1950-1951), tiếp tục tăng lên 1.723 người (năm học 1951-1952) và đạt tới 2.260 người (năm học 1953-1954).   

Thời gian sau đó, các trường thuộc Đại học Đông Dương cả ở Hà Nội và Sài Gòn vẫn tiếp tục khai giảng để đón nhận sinh viên mới. Đưa tin về lễ khai giảng năm học 1952-1953 ở Việt Nam, tạp chí của Phủ Cao ủy Pháp ở Việt Nam xuất bản tại Paris đã bình luận:

“ Một vài tuần sau các trường trung học và cấp I, các trường đại học và các trường lớn của Việt Nam đã mở cửa trở lại.

… Trường đại học nguyên gốc nhất của Việt Nam chắc chắn là Trường Đại học Văn khoa của Hà Nội . Không chỉ giới hạn trong duy nhất một chức năng “phân phối các bằng cấp’, Trường còn theo đuổi nhiệm vụ phát hiện và tái phát hiện, đặc biệt là cho thế hệ trẻ của chúng ta, sự phong phú của nền văn minh Việt Nam và của Viễn đông mà không xóa bỏ nền văn minh châu Âu.

Sự giảng dạy thì hoàn toàn bằng tiếng Việt và kết thúc thì bằng việc cấp bằng cử nhân văn học đích thực Việt Nam.

Tuy nhiên, việc tổ chức học tập được mô phỏng theo tổ chức của các trường đại học Pháp. Trường dạy ít nhất trong 3 năm. Kết thúc năm học cơ sở, sinh viên có thể lựa chọn cho mình một trong 4 môn học: Văn học, Sử học – Địa lý học. Triết học và Sinh ngữ” .

Theo những tài liệu mới giải mật năm 2014 thuộc phông Service de Protection du Corps Expéditionnaire (SPCE)  hiện đang được bảo quản tại Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháptại Aix-en Provence, số sinh viên Đại học Đông Dương phía nam (danh sách lập ngày 12-8-1954) có 202 người theo học các khoa Khoa học, Luật, Y và Văn khoa.Những tài liệu này cũng cho thấy, ông Champy (Hiệu trưởng ĐHĐD) đã có nhiều cố gắng tìm kiếm những giáo sư người Pháp và người Việt giảng dạy bậc đại học ở Pháp. Kết quả là ĐHĐD đã có một hàng ngũ giáo viên giảng dạy tại Khoa Văn học Việt Nam (Faculté vietnamienne des Lettres) trong năm học 1952-1953: các ông Trân Le Nhan (cử nhân chữ Hán) đảm nhiệm môn Hán văn; Nghiem Toan (tốt nghiệp Trường Sư phạm Hà Nội) dạy Việt văn; Nguyen Vu Thieu (giáo sư) dạy Triết học và Anh văn; Nguyen Dang Thuc (giáo sư) dạy triết học Phương đông; Mai Van Phuong (giáo sư hệ giáo dục cao đẳng Pháp-Đông Dương) dạy các môn Lịch sử và Địa lý; Doan Phu Tu dạyVăn học Việt Nam . Ngoài ra, trong năm học 1952-1953, Khoa Văn học Việt Nam đã có thêm 4 giáo sư người Pháp .

Ngoài việc tìm kiếm giáo viên ra, ông Champy còn có những xúc tiến chuẩn bị cho sự ra mắt chính thức và cho hoạt động của Trường Đại học Hỗn hợp Pháp-Việt trong tương lai. Tuy nhiên, tất cả những cố gắng của ông Champy còn chưa trở thành hiện thực thì chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử đã nổ ra. Hiệp định Genève năm 1954 đã đem lại hòa bình cho các nước trên bán đảo Đông Dương và kể từ thời gian ấy, vai trò lịch sử của ĐHĐD - trường đại học danh tiếng một thời của Pháp trên bán đảo này cũng chấm dứt. 

III. Đại học Đông Dương và những tác động đến xã hội Việt Nam

Trong một vài nghiên cứu về Đại học Đông Dương  và trong một công trình viết về Đại học Quốc gia Hà Nội được công bố cách đây 10 năm nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đại học Đông Dương  , quá trình hình thành và phát triển cùng những vấn đề về chương trình đào tạo cũng như những mặt hạn chế của Đại học Đông Dương đã được các tác giả phân tích một cách khoa học, rõ ràng. 

Trong khuôn khổ của báo cáo này, chúng tôi muốn căn cứ vào tài liệu của cả hai Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Việt và Pháp để chứng minh một nhận định mà cho tới nay vẫn còn có ý kiến hoài nghi: đó là sự tác động của Đại học Đông Dương đến xã hội Việt Nam thông qua việc hình thành một bộ phận trí thức yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Trở lại với cuộc cải cách giáo dục lần thứ nhất của Toàn quyền Paul Beau với Nghị định thành lập tại mỗi xứ ở Đông Dương một Hội đồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ. Một trong những nhiệm vụ mà Hội đồng này được quy định là “Nghiên cứu, thu thập, bảo quản, và nếu cần, cho tái bản những tác phẩm cổ đại, cận đại về văn học, triết học, lịch sử” .Điều đó chứng tỏ rằng, cho dù là cải cách nhằm tạo ra một hàng ngũ những người bản xứ có đủ kiến thức, có đủ khả năng cộng tác với chính quyền song người Pháp không hoàn toàn xóa bỏ nền tảng về văn hóa tinh thần của dân tộc bản địa. 

Tài liệu lưu trữ cũng cho thấy, ngay trong cuộc cải cách lần thứ nhất, ở chương trình tiểu học, ngoài môn đạo đức phải học ngay từ lớp đồng ấu (cours enfentindành cho trẻ em 7 tuổi), học sinh còn được học môn lịch sử ngay từ lớp dự bị (cours préparatoire dành cho trẻ em 8 tuổi). Từ việc làm quen với môn lịch sử lần đầu tiên qua các truyện ngắn, giai thoại, tiểu sử trích từ lịch sử địa phương, các sự kiện lịch sử hoặc địa danh lịch sử trong vùng ở lớp dự bị đến việc ôn tập có phát triển những khái niệm đã được học ở các lớp sơ đẳng (cours élémentaire), trung đẳng (cours moyen), học sinh còn được học về các xứ thuộc nước Nam (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) và các thời kỳ lịch sử cùng các nhân vật lịch sử như các vua triều Nguyễn; giai đoạn Trịnh - Nguyễn phân tranh; cuộc nổi dậy của quân Tây Sơn, vua Gia Long và các hậu duệ… Điều đó chứng tỏ rằng, ngay còn trong thời kỳ tiểu học, học sinh đã được trang bị những kiến thức cơ sở về lịch sử đất nước, về lòng tự hào dân tộc. Vì thế, mặc dù lên các lớp trên thuộc cấp trung học và sau này là đại học, được đào tạo trong các trường học của Pháp, chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp, học lịch sử nước Pháp nhiều hơn lịch sử nước Nam nhưng tầng lớp trí thức tân học ở Việt Nam lại có một nền tảng giáo dục truyền thống rất vững chắc. Từ đó, có thể rút ra kết luận: mặc dù những nỗ lực của người Pháp về giáo dục chủ yếu nhằm mục đích phục vụ công cuộc cai trị, tức là vì “Mẫu quốc” hơn là để “khai hóa văn minh” cho Việt Nam nhưng lại đem lại điều mà chính quyền thực dân không mong đợi. Đó chính là sự hình thành nên một một bộ phận trí thức yêu nước của dân tộc Việt Nam.

Chúng ta đều biết rằng, tài liệu lưu trữ là do con người sản sinh ra. Ngoài tính trung thực, khoa học để làm chứng cứ xác thực cho các công trình nghiên cứu, tự bản thân tài liệu cũng mang trong mình tính giai cấp của những người sinh ra nó.

Trong các phông tài liệu ở cả hai Trung tâm Lưu trữ Quốc gia Việt Nam và Pháp, người ta tìm thấy tương đối nhiều báo cáo của mật thám Pháp, thư từ, công văn trao đổi giữa Sở An ninh Pháp ở chính quốc, Toàn quyền Đông Dương với các cơ quan chuyên môn như Sở Học chính Đông Dương, Hiệu trưởng Đại học Đông Dương … phản ánh về hoạt động “nổi loạn” của sinh viên Đại học Đông Dương. Những tài liệu này đa phần có đóng dấu “Mật” (Secret). Tuy chưa phản ánh được hết phong trào hoạt động yêu nước của sinh viên song những tài liệu này đem đến cho chúng ta một cái nhìn chân thực về hoạt động của sinh viên Đại học Đông Dương, cho dù chúng được viết với những từ ngữ mang tính thực dân.

Nghiên cứu tài liệu lưu trữ của chính quyền thuộc địa cũ ở Đông Dương, qua  những tờ báo cáo, những tập công văn trao đổi đóng dấu “Mật” đầy từ ngữ mang tính thực dân, người ta thấy,cho dù được học trong khối các trường đại học từng được ca ngợi là “một trung tâm tỏa sáng ở Đông Nam Á và là nơi gặp gỡ của hai nền văn minh châu Âu và Viễn Đông”,nhưng sinh viên Việt Nam và sinh viên các nước Đông Dương đã phải chịu sự phân biệt đối xử với sinh viên Pháp, thậm chí còn phải đối mặt với thái độ miệt thị củamột số ít giáo viên người Pháp.May thay, ngoài số quan chức kiêm nhiệm của chính quyền thuộc địa mang nặng đầu óc thực dân tham gia giảng dạy, ĐHĐD còn có những giáo sư, những nhà khoa học thực thụ, giàu tài năng và có tinh thần dân chủ như Alecxandre Yersin, Charles Maybon, Victor Tardieu...

Sinh ra từ một dân tộc vốn có truyền thống yêu nước đã được vun đắp từ bao thế hệ, với ý chí quật cường của ông cha để lại, ngay từ những năm 1930, sinh viên ĐHĐD đã có những hoạt động đấu tranh mạnh mẽ, có tổ chức nên đã làm đau đầu giới thực dân. Từ một tổ chức nhỏ ban đầu có tên “Hội Ái hữu cựu sinh viên Trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương” (Association amicale des Anciens Etudiants de l’Ecole supérieure de Commerce de l’Indochine) thành lập vào năm 1934, đến Tổng Hội sinh viên Đại học Đông Dương (Association Générale des Etudiantes de l’Université Indochinoise-A.G.E.I)  thành lập năm 1935, hoạt động của sinh viên được hướng tới như hoạt động của một tổ chức ái hữu với tôn chỉ, mục đích, điều lệ rõ ràng, nhằm bênh vực quyền lợi vật chất, tinh thần của sinh viên một nước thuộc địa. Tổng Hội sinh viên có một địa điểm hoạt động ở Hà Nội được gọi là “Nhà Sinh viên” (Maison des Etudiants) gồm một thư viện và một phòng giải trí . Năm 1936, tổ chức này đã bầu ra một Ban Trị sự gồm Phan Huy Quát (sinh viên Trường Y, Hội trưởng), Nguyễn Hữu Thiệu (sinh viên trường Mỹ thuật, Phó Hội trưởng), Nguyễn Lương (sinh viên Trường Luật), Phạm Gia Huỳnh (sinh viên Trường Dược), Nguyễn Văn Vinh (sinh viên Trường Y, Tổng Thư ký), Nguyễn Gia Đức (sinh viên Trường Mỹ thuật) và Nguyễn Văn Trác (sinh viên Trường Luật) . Ngoài ra, Ban Trị sự còn có các cố vấn: Vũ Văn Hiền (sinh viên năm thứ 4 Trường Luật), Hoàng Cơ Thụy (sinh viên năm thứ 3 Trường Luật), Đặng Huy Lộc (sinh viên năm thứ 5 Trường Y), Nguyễn Văn Sanh (sinh viên năm thứ 3 Trường Y) và Trần Kim Quan (sinh viên năm thứ 4 Trường Dược).

Đoàn kết chặt chẽ trong tổ chức của mình, ngoài việc tham gia các hoạt động tuyên truyền cách mạng (tham gia việc tổ chức lễ Giỗ tổ Hùng Vương tại Khu Học xá, tham gia “Tuần lễ đoàn kết thanh niên” được tổ chức tại Hà Nội từ ngày 24 đến 27-9-1953, tham gia vào Đại hội Thanh niên Học sinh do Nha Học chính và Nha Thanh niên Bắc Việt tổ chức tại Hà Nội ngày 8-11-1953)…sinh viên Đại học Đông Dương còn có nhiều hình thức hoạt động phong phú như:

1. Tổ chức các buổi học văn hóa

Một trong những hoạt động của Hội Sinh viên Việt Nam trong những năm 1950-1951 là tổ chức các lớp học bổ túc văn hóa không lấy tiền học phí nhằm mục đích “giúp các học sinh không đủ điều kiện theo học các trường tư hay các lớp riêng có thể tiếp tục học tập, trau dồi kiến thức và gây thêm tình thân thiện giữa sinh viên và học sinh” . Cùng với người sáng lập ra phong trào xóa nạn mù chữ như cụ Nguyễn Văn Tố (Hội trưởng Hội Truyền bá quốc ngữ) và các hội viên tích cực khác như Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp…, sinh viên Đại học Đông Dương đã góp phần vào việc xây dựng nội dung và phương pháp giảng dạy là những kinh nghiệm quý giá cho cuộc vận động xóa nạn mù chữ sau cách mạng tháng Tám thành công.Đây cũng là mục đích mà Ban Quản trị lâm thời Hội sinh viên đã nêu ra trong phiên họp đầu tiên ngày 6-8-1950.

Ngày 4-9-1950, lớp bổ túc đầu tiên đã được khai giảng với đội ngũ giáo viên hoàn toàn là sinh viên thuộc tất cả các trường đại học. Những môn được tổ chức dạy trong khóa đầu tiên này gồm Việt văn, Pháp văn, Anh văn, Toán, Vật lý, Hóa học được chia làm 10 giờ trong tuần, với sự tham gia của 25 sinh viên và Ban Tổ chức (gồm 4 ủy viên phụ trách và 1 thư ký). Với 500 giờ được giảng dạy vàtrên 80 học sinh theo học, thành công của khóa học đầu tiên không những chứng tỏ rằng các lớp học bổ túc của sinh viên đã kết chặt tinh thần thân thiện giữa học sinh và sinh viên, đạp đổ hàng rào bằng cấp vô ý thức chia rẽ học sinh và sinh viên mà còn chứng tỏ năng lực của sinh viên và học sinh, chứng tỏ thanh niên không phải là những người bồng bột, không thể xây dựng được một công cuộc gì bền vững như xã hội đã quan niệm .

2. Đấu tranh chống phân biệt bằng cấp

Bên cạnh các hoạt động văn hóa, sinh viên các trường thuộc Đại học Đông Dương còn có các hình thức đấu tranh khác nhằm chống chế độ phân biệt về bằng cấp của chính quyền thực dân. Theo “Thư từ nước Pháp” (Lettres de France) ngày 19-3-1952, Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp ở Paris đã ra một Thông tư về chủ trương của Vụ Giáo dục Đại học (Direction de l’Enseignement supérieur), trong đó thừa nhận sự giống nhau về chất lượng của bằng trung học phổ thông của Việt Nam và Pháp, nhưng từ chối sự bình đẳng hiển nhiên này đối với các bằng đại học của các trường đại học ở Hà Nội .

Đây là một sự từ chối vô lý bởi vì giáo dục đại học ở Viễn đông được xây dựng theo mô hình của Pháp, với sự hợp tác của hàng ngũ giáo viên người Pháp và Việt. Như vậy, đáng lẽ ra nó cũng phải được bình đẳng như các trường đại học ở Paris, Lille, Monpellier hay ở Lyon. Chính vì vậy, sinh viên tốt nghiệp các trường đại học ở Hà Nội đã phản đối chính sách phân biệt vô lý của chính quyền thực dân, đòi các văn bằng do các trường đại học ở Hà Nội phải có giá trị ngang với các văn bằng do các trường đại học ở Pháp cấp. Cuối cùng, cuộc đấu tranh của sinh viên Đại học Đông Dương đã nhận được sự ủng hộ của những người làm công tác giáo dục của Việt Nam thời kỳ đó. Trong cuộc họp ngày 11-12-1952 tại Hội đồng Liên hiệp Pháp, đại diện của Việt Nam là ông Bùi Thế Phúc đã thuyết trình vấn đề bình đẳng về bằng cấp giữa hai hệ đào tạo của hai nước Pháp-Việt.

Khẳng định rằng Thông tư của Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp là hòa toàn trái với thỏa ước về văn hóa đã được ký kết ngày 30-12-1949 giữa hai chính phủ Pháp-Việt, ông Bùi Thế Phúc yêu cầu bãi bỏ Thông tư bất hợp lý này và đòi chính phủ Pháp phải thực hiện những điều đã ký kết. Kết quả là từ cuối năm 1952 đến cuối năm 1953, Tổng thống Pháp đã lần lượt ký các Sắc lệnh do Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp trình lên, công nhận các bằng do các trường đại học ở Hà Nội cấp có giá trị ngang với các bằng do các trường đại học ở Pháp cấp.

3. Đấu tranh chống miệt thị sinh viên, chống thái độ thực dân của giáo viên người Pháp

Qua một số tài liệu lưu trữ của phông các Sở An ninh Pháp (Fonds des Services français de sécurité) ở Aix-en Provence, hình thức đấu tranh này của sinh viên Đại học Đông Dương được biểu thị từ thấp đến cao, từ bột phát đến có tổ chức và đã mang lại kết quả nhất định. Điển hình là cuộc biểu tình, bãi khóa của sinh viên khoa Khoa học ở Hà Nội (Faculté des Sciences de Hanoï) phản đổi thái độ miệt thị đầy tính thực dân đối với sinh viên của một giáo sư người Pháp là cô Hatem dạy môn Hóa học đại cương.

Theo Phiếu thông tin của Sở An ninh thuộc Phủ Cao ủy Pháp tại Sài Gòn ngày 10-3-1952 số 2081/RG thì cuộc biểu tình,bãi khóa của sinh viên khoa Khoa học đã lôi kéo theo sự tham gia của sinh viên Trường Y và thông tin về cuộc biểu tình này đã được đăng trên báo Tia sáng.Hiệu trưởng Champy cho rằng sinh viên biểu tình vì đã hiểu nhầm cách đối xử của cô Hatem , đồng thời cũng bày tỏ sự không hài lòng vì báo Tia sáng đã đăng một bài chống lại cô Hatem. Cho rằng bài báo đã làm “rối loạn trật tựTrường Đại học” và có thể dẫn tới “hậu quả về mặt chính trị”, ông Champy đã quyết định ngừngcác lớp học của Ban Khoa học (Sectiondes Sciences).

Trước thái độ đó của ông Champy, sinh viên Đại học Đông Dương đã liên kết với nhau yêu cầu sự can thiệp của Văn phòng Quốc trưởng và của HộiPhụ huynh học sinh ở Hà Nội. Hội trưởng Hội Phụ huynh là ông Le Thanh Can đã gửi một báo cáo về vụ việc trên cho Quốc trưởng và mặt khác, với tư cách cá nhân, đã đến gặp Hiệu trưởng Champy.Hội phụ huynh học sinh cũng đã kịp thời can thiệp, yêu cầu Trường mở lại các lớp học để sinh viên Khoa Khoa học có thể tiếp tục đi học. Cuối cùng, trước tinh thần đoàn kết của sinh viên và sự can thiệp của Hội Phụ huynh, ngày 5-3-1952, ông Champy đã phải ra quyết định tổ chức lại các lớp học về Hóa học đại cương do cô Hatem phụ trách và Hóa hữu cơ do ông Laurent phụ trách.

Qua các nguồn tài liệu của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I ở Hà Nội và Lưu trữ Hải ngoại Quốc gia Pháp ở Aix en Provence (Cộng hòa Pháp), báo cáo “Đại học Đông Dương và những tác động của nó đối với xã hội Việt Nam thời kỳ 1906-1954” đã chứng minh:

- Đại học Đông Dương không phải là một tên gọi hữu danh vô thực mà là một thực thể hiện hữu trong lịch sử Việt Nam với tư cách là một trung tâm giáo dục đại học theo mô hình hiện đại đương thời. Ngay từ khi thành lập (1906), Đại học Đông Dương đã có một người đứng đầu, cho dù tên gọi của chức danh này có sự thay đổi qua từng thời kỳ. Từ Thư ký (Secrétaire) đến Hiệu trưởng (Recteur) là cả một quá trình hoàn thiện không ngừng về cơ cấu tổ chức của Đại học Đông Dương với những nỗ lực của những người có tâm huyết với sự nghiệp giáo dục của Đông Dương nói chung và của Việt Nam nói riêng.

- Mặc dù còn có những hạn chế nhất định song hai cuộc cải cách giáo dục của Paul Bert (năm 1906) và Albert Sarraut (năm 1917) đã đưa lại những thành quả đáng ghi nhận. Nhờ có hai cuộc cải cách này, toàn bộ nền giáo dục ở Đông Dương nói chung, Việt Nam nói riêng đã có những chuyển biến đáng kể. Trong xu thế chung của giáo dục Đông Dương lúc đó, sự phát triển của Đại học Đông Dương thực sự có một ý nghĩa to lớn, đặt cơ sở vững chắc cho những bước phát triển tiếp theo của toàn bộ hệ thống giáo dục bậc đại học ở Việt Nam.

- Tuy Đại học Đông Dương là sản phẩm của chế độ thực dân, được thành lập nhằm mục đích chính là đào tạo nguồn nhân lực bản xứ phục vụ cho công cuộc thống trị và khai thác thuộc địa song ĐHĐD cũng đào tạo ra một số sinh viên có tri thức, có lòng yêu nước nồng nàn. Cùng với một số người khác được đào tạo ở Pháp về, những sinh viên này đã góp phần hình thành nên một đội ngũ các nhà khoa học và văn nghệ sĩ hiện đại, có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển sự nghiệp văn hóa, khoa học và giáo dục của đất nước trong thế kỷ XX. Thông qua chính sách giáo dục của Pháp, người Việt đã tiếp thu những kiến thức mới của văn minh phương Tây một cách có chọn lọc và làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đây là một kết quả hoàn toàn nằm ngoài sự mong đợi của chính quyền thuộc địa.

 TS. Đào Thị Diến – Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I - VNU Media
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   | 328   | 329   |