Trang chủ   >   >    >  
Sự phát triển của đội ngũ cán bộ nữ ĐHQGHN qua các thời kỳ
Sự phát triển lớn mạnh của ĐHQGHN ngày nay có công lao đóng góp rất lớn của đội ngũ cán bộ nữ, mà đại diện là các nữ giáo sư (GS), phó giáo sư (PGS), tiến sĩ (TS).

Truyền thống của ĐHQGHN gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của trường đại học đầu tiên ở Việt Nam là Trường Đại học Đông Dương (thời Pháp thuộc), Đại học Quốc gia Việt Nam (từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945), Đại học Tổng hợp Hà Nội (1956 - 1996) và từ 1996 tới nay là đại học Quốc gia Hà Nội (trong đó bao gồm cả Trường Đại học Sư phạm Ngoại ngữ Hà Nội). Hiện nay, ĐHQGHN có khoảng 149 GS, PGS, TS nữ (bao gồm cả những chị đã nghỉ hưu) thuộc Trường ĐHKHTN - 32,9%, Trường ĐHKHXH&NV - 24,2%, Trường ĐHNN - 20% và các đơn vị trực thuộc khác - 23,4%. Trong 149 GS, PGS, TS nữ có 4 GS, 42 PGS, 4 TSKH, 142 TS, các chị đạt học hàm PGS phần nhiều thuộc Trường ĐHKHTN - chiếm 52,4%; các chị PGS thuộc Trường ĐHKHXH&NV chiếm 19%, các đơn vị trực thuộc (các phòng ban, các Trung tâm và các khoa trực thuộc, trong đó tính cả 1 chị thuộc Trường ĐHCN) chiếm 16,7% và các chị PGS ở Trường ĐHNN có tỷ lệ nhỏ nhất, chiếm 9,5%.

Các nữ tiến sĩ của ĐHQGHN được đào tạo ở nước ngoài chiếm 45,8%, đào tạo trong nước chiếm 54,2%. Xem xét riêng theo từng trường, Trường ĐHKHTN có 52% các nữ tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài. Trong khi đó, tỷ lệ nữ tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài của Trường ĐHKHXH&NV chỉ chiếm có 26,4%. Riêng Trường ĐHNN, với đặc thù chuyên môn về ngôn ngữ nước ngoài nên tỷ lệ tiến sĩ được đào tạo ở nước ngoài chiếm tương đối lớn - 65%.

Sự trưởng thành của đội ngũ các GS, PGS, TS qua các thời kỳ sẽ là những minh chứng cho sự phát triển và vươn lên mạnh mẽ của đội ngũ cán bộ nữ ĐHQGHN.

Thế hệ đầu tiên của đội ngũ khoa học nữ ĐHQGHN sinh vào khoảng 1930 - 1940. Đó là những nữ GS, PGS, TS tốt nghiệp đại học trong giai đoạn 1950 - 1960. Có thể coi 6 nhà khoa học nữ tiêu biểu cho ĐHQGHN (ĐHTHHN) thời kỳ này là PGS Văn học Đặng Thị Hạnh; NGƯT. Lê Hồng Sâm; GS.TS Ngôn ngữ Hoàng Thị Châu; PGS Sử học Phạm Thị Tâm; GS.TSKH Sinh học Phạm Thị Trân Châu và GS.TSKH Hóa học Ngô Thị Thuận.

Trưởng thành từ trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, bằng nhiều nỗ lực và lòng kiên trì, thế hệ các nhà khoa học nữ đầu tiên của ĐHQGHN đã vươn lên mạnh mẽ, góp tên mình vào đội ngũ các nhà khoa nữ thế hệ đầu của nước Việt Nam độc lập và trở thành những chuyên gia khoa học đầu ngành trong chuyên môn với nhiều công trình khoa học có tiếng vang trong nước và quốc tế. NGƯT. Lê Hồng Sâm đã dịch và xuất bản hơn 16 tác phẩm nổi tiếng về văn học Pháp. PGS. Đặng Thị Hạnh vừa viết phê bình, vừa dịch và cho xuất bản hơn 15 cuốn sách của văn học Pháp. Cả hai chị thường làm việc cùng nhau và có công phát triển văn học Pháp vào Trường ĐHTHHN qua việc viết giáo trình, chủ biên sách, giới thiệu và dịch thuật những tác phẩm của tác gia Pháp nổi tiếng như bộ “Tấn trò đời” của O.Balzac. GS.TS Hoàng Thị Châu - một chuyên gia hàng đầu trong ngành phương ngữ học Việt Nam, chị đã có gần 60 công trình khoa học và đã cho xuất bản 7 cuốn sách (thuộc các lĩnh vực: giáo trình, chuyên luận, từ điển). PGS. Phạm Thị Tâm - nữ phó giáo sư sử học đầu tiên của Trường ĐHTHHN, chị đã cùng GS. Hà Văn Tấn biên soạn cuốn sách “Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỷ XIII” được đánh giá rất cao trong giới sử học. GS.TSKH Phạm Thị Trân Châu - nhà khoa học nữ có thành tựu ấn tượng với hơn 100 công trình khoa học và sách được xuất bản và đã nhận giải thưởng Kovalepxkaia năm 1988 về các nghiên cứu trong lĩnh vực Enzim. GS.TSKH Ngô Thị Thuận - một trong những người phụ nữ đầu tiên được nhận bằng TSKH, chị đã có hơn 100 công trình khoa học và sách nghiên cứu được xuất bản.

Hiện nay, thế hệ các nhà khoa học đầu tiên này đã quá tuổi nghỉ hưu, nhưng các chị vẫn hăng say nghiên cứu và hoạt động có hiểu quả trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Các chị đã biên soạn và xuất bản 65 đầu sách và giáo trình chuyên môn, đã đăng 299 bài báo trong các tạp chí chuyên ngành, sách tham khảo hoặc kỷ yếu hội thảo; chủ trì 31 đề tài các cấp và đã hướng dẫn được 16 thạc sĩ và 27 tiến sĩ. Tính trung bình mỗi nhà khoa học nữ ở thế hệ này đã tham gia biên soạn 10,8 đầu sách, 49,8 bài báo, chủ trì 5,2 đề tài các cấp, hướng dẫn được 2,7 thạc sĩ và 4,5 tiến sĩ. Có thể coi thế hệ I chính là những nhà khoa học hàng đầu đào tạo nên nhiều thế hệ các nhà khoa học không chỉ riêng ở ĐHQGHN mà cả các trường trên cả nước.

Thế hệ thứ hai của các đội ngũ khoa học nữ ĐHQGHN là những chị sinh ra sau những năm 1940, tốt nghiệp đại học ở trong nước (chiếm 32,9%) và ngoài nước (chiếm 61,1%) vào cuối những năm 1960 – 1970. Có đến 70% các chị bảo vệ luận án TS, TSKH ở nước ngoài, chủ yếu ở các nước XHCN như Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc, Ba Lan, Hungari... vào những năm 1970 - 1980 và được phong học hàm PGS đợt 1991 hoặc 1996. So với thế hệ đầu, thế hệ thứ hai có số lượng về học hàm, học vị đông đảo hơn, chiếm khoảng 20% đội ngũ khoa học nữ toàn ĐHQGHN.

Nhìn chung, các nữ GS, PGS, TS thế hệ hai hầu hết tập trung ở lĩnh vực khoa học tự nhiên (bao gồm các chị thuộc Trường ĐHKHTN hoặc các đơn vị trực thuộc ĐHQGHN) - có 22 chị, chiếm 70,9%. Trường ĐHNN có 7 chị, chiếm 22,6% và Trường ĐHKHXH&NV chỉ có 2 chị, chiếm 6,5%.

Nói đến các nhà khoa học nữ tiêu biểu của thế hệ thứ hai, không thể không nhắc tới các chị, như: GS.TS Sinh học Nguyễn Thị Kim Ngân và PGS.TSKH Vật lý Kiều Thị Xin, mỗi chị có hơn 40 công trình nghiên cứu khoa học ở các cấp, các bài báo và các sách đã công bố. PGS.TS Hóa học Lê Viết Kim Ba với 12 công trình nghiên cứu mang tính ứng dụng, đạt giải thưởng Kovalepxkaia năm 1990 và giải thưởng sáng tạo Khoa học công nghệ năm 1999. PGS.TS Sinh học Nguyễn Thị Chính với hơn 40 công trình nghiên cứu khoa học, sách và giáo trình đã xuất bản và đạt giải thưởng sáng tạo Khoa học Công nghệ 2003. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, PGS.TS Sử học Lê Thị Quý, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu giới và phát triển thuộc Trường ĐHKHXH&NV, với hơn 50 công trình nghiên cứu khoa học, sách và giáo trình đã xuất bản và có hơn 30 bài viết được in trong các sách tham khảo... Còn rất nhiều tên tuổi các nhà khoa học nữ tiêu biểu khác mà chúng tôi không thể liệt kê hết.

Những đóng góp của thế hệ hai trong nghiên cứu khoa học nói riêng và trong sự phát triển của ĐHQGHN nói chung là vô cùng to lớn. Các chị đã biên soạn và xuất bản 58 đầu sách và giáo trình chuyên môn; đã đăng 310 bài báo trong các tạp chí chuyên ngành, sách tham khảo hoặc kỷ yếu hội thảo; chủ trì 67 đề tài các cấp và đã hướng dẫn được 55 thạc sĩ và 28 tiến sĩ. Tính trung bình mỗi nhà khoa học nữ ở thế hệ này đã tham gia biên soạn 2,8 đầu sách, 14,8 bài báo, chủ trì 3,2 đề tài các cấp, hướng dẫn được 2,6 thạc sĩ và 1,3 tiến sĩ.

Thế hệ thứ ba là thế hệ các chị sinh từ 1951 - 1960, đa phần các chị tốt nghiệp đại học trong nước (chiếm tỷ lệ 72,1%) vào thời điểm những năm 1970 - 1980. Gần một nửa thế hệ thứ III được bảo vệ luận án tiến sĩ trong những năm 1980 - 1990 tại nước ngoài (chiếm 40.1%). So với các thế hệ khác thì thế hệ các chị ít có cơ hội được bảo vệ tiến sĩ tại nước ngoài nhất.

Có một sự phát triển về số lượng các nữ PGS, TS các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở thế hệ thứ ba so với thế hệ thứ hai. Nếu như ở thế hệ thứ hai, các GS, PGS, TS chủ yếu thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên - chiếm 70,9%, thì ở thế hệ thứ ba, các chị thuộc lĩnh vực khoa học này chỉ chiếm tỷ lệ rất ít - 19,2%. Trong khi đó, các nữ PGS, TS thuộc lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn chiếm số lượng đông nhất - 57,7%. Điều này phản ánh một sự phát triển không liên tục của đội ngũ nữ tiến sĩ ĐHQGHN, với sự hụt hẫng lớn trong đội ngũ cán bộ nữ có học hàm học vị cao ở lĩnh vực khoa học tự nhiên và sự vươn lên nhanh chóng để khẳng định vị thế của lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn.

Đội ngũ các nữ PGS, TS thế hệ thứ ba của ĐHQGHN có 52 chị chiếm 41,7% toàn ĐHQGHN, trong đó có 23 PGS chiếm 54,8% số PGS toàn ĐHQGHN (42 chị). Đây là thế hệ đông đảo nhất trong đội ngũ các nhà khoa học nữ, và thế hệ này đang trong thời kỳ sung sức nhất về mặt nghiên cứu khoa học, làm quản lý cũng như kỹ năng giảng dạy. Có thể kể ra một vài gương mặt tiêu biểu của thế hệ này, như: PGS.TS Sử học Vũ Thị Phụng với 50 công trình khoa học (bao gồm các đề tài làm chủ trì, các bài báo, sách và giáo trình tham gia biên soạn), hiện chị là Phó chủ nhiệm Khoa Lưu trữ học và Quản trị văn phòng. PGS.TS Tâm lý học Trần Thị Minh Đức với 50 công trình khoa học, hiện chị là chủ nhiệm Bộ môn Tâm lý học xã hội, Khoa Tâm lý học và là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ - ĐHQGHN. PGS.TS Tâm lý Nguyễn Thị Mỹ Lộc với 30 công trình khoa học, hiện nay chị là Chủ nhiệm Khoa Sư Phạm - ĐHQGHN. PGS.TS Hóa học Trần Thị Như Mai với gần 30 công trình khoa học, hiện chị là Phó chủ nhiệm Khoa Hóa học, Trường ĐHKHTN. PGS.TS Ngôn ngữ Nguyễn Thị Việt Thanh với gần 30 công trình khoa học, hiện chị là Trưởng Ban CT&CT HSSV, ĐHQGHN. TS. Khảo cổ học Lâm Thị Mỹ Dung với hơn 100 bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, hiện chị là Giám đốc Bảo tàng Nhân học thuộc Trường ĐHKHXH&NV...

Có thể nói các nhà khoa học thuộc thế hệ thứ ba được đào tạo ở thế kỷ XX nhưng đang và sẽ đóng góp lớn cho sự phát triển khoa học của ĐHQGHN trong thế kỷ XXI. Cho đến nay các chị đã tham gia biên soạn 108 đầu sách và giáo trình chuyên môn, đã đăng 741 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành hoặc kỷ yếu hội thảo, chủ trì 127 đề tài các cấp, hướng dẫn được 158 thạc sĩ và 22 tiến sĩ. Tính trung bình mỗi nhà khoa học nữ ở thế hệ này đã tham gia biên soạn 2,45 đầu sách, 16,8 bài báo, chủ trì 2,9 đề tài các cấp, hướng dẫn 3,6 thạc sĩ và số tiến sĩ đã hướng dẫn là 0,5 người.

Thế hệ thứ tư là thế hệ của các nữ tiến sĩ trẻ, họ là những sinh viên tốt nghiệp đại học từ năm 1990 đến nay, chiếm 32,2% đội ngũ GS, PGS, TS nữ toàn ĐHQGHN (có 37 chị, trong đó có duy nhất 1 PGS, số còn lại là TS). Đây là thế hệ vẫn còn tiếp tục phát triển trong nhiều năm tiếp theo. Xét về tương quan giữa các ngành khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn và ngoại ngữ thì thế hệ này có sự phát triển đồng đều hơn. Rất nhiều chị được đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại như Mỹ, Nhật, Pháp, úc, Thụy Điển, Anh... Những khó khăn về kinh tế, điều kiện sống và điều kiện làm việc của thế hệ những nhà khoa học nữ lớp trước đã không còn là nỗi lo hàng đầu của thế hệ này. Thách thức lớn nhất đối với thế hệ thứ tư của ĐHQGHN là đáp ứng trình độ khoa học của thế kỷ XXI và trở thành những chuyên gia khoa học trong lĩnh vực chuyên môn của mình để khẳng định vai trò kế cận đội ngũ các nhà khoa học nữ thế hệ trước.

Thế hệ I được đánh dấu bằng số lượng không nhiều số GS, PGS, TS nhưng các công trình khoa học mà các chị để lại đã rất đồ sộ, đặc biệt là các sách và giáo trình (xem phần thế hệ I). Trong khi đó, các nữ PGS.TS thuộc thế hệ thứ IV của ĐHQGHN, mặc dù tuổi đời còn trẻ, nhưng các chị cũng đã đạt được những thành tựu khoa học đáng kể. Các chị đã tham gia biên soạn được 64 đầu sách và giáo trình chuyên môn, đăng 416 bài báo trên các tạp chí chuyên ngành hoặc kỷ yếu hội thảo và chủ trì 22 đề tài các cấp, hướng dẫn được 72 thạc sĩ và 1 tiến sĩ. Tính trung bình mỗi nhà khoa học nữ ở thế hệ này đã tham gia biên soạn 2 đầu sách, đăng 13 bài báo, chủ trì 2,8 đề tài các cấp, hướng dẫn được 2,3 thạc sĩ và 0,2 tiến sĩ.

Độ tuổi trung bình đạt được học vị tiến sĩ của các nhà khoa học nữ toàn ĐHQGHN là tương đối cao - 38 tuổi, và được phong học hàm PGS là 50,7 tuổi. Xét trong từng thế hệ, độ tuổi trung bình đạt học vị và học hàm ở ĐHQGHN đang có xu hướng giảm.

Xem xét thời điểm đăng các bài báo khoa học, số liệu cho thấy hơn 40% các chị có ít nhất 5 bài báo khoa học (có một số chị đã đăng trên 20 bài) trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ. Có 30% các GS, PGS, TS có ít nhất 20 bài báo khoa học, trong đó có người viết hơn 100 bài báo. Biểu đồ dưới đây mô tả số lượng trung bình các bài báo viết trước và sau khi đạt học vị tiến sĩ của các thế hệ.

Bên cạnh hoạt động nghiên cứu khoa học, nhiều nhà khoa học nữ còn tham gia công tác quản lý, số lượng các chị đã và đang đảm nhiệm các vị trí quản lý ở cấp bộ môn và khoa chiếm 31,9 % đội ngũ nữ PGS, TS của ĐHQGHN. Tuy nhiên, nếu xem xét trên toàn bộ đội ngũ cán bộ của ĐHQGHN thì các GS, PGS, TS nữ giữ chức vụ quản lý bộ môn, khoa chỉ chiếm xấp xỉ 2%. Mặt khác, số lượng các chị tham gia công tác quản lý, lãnh đạo đang có xu hướng giảm dần từ thế hệ 1 (50% các chị tham gia công tác quản lý) đến thế hệ 3 (giảm còn 21,2%) và bắt đầu có sự tăng lên trong thế hệ 4.

Như vậy, những đóng góp của đội ngũ khoa học nữ đối với sự phát triển của ĐHQGHN nói riêng và toàn bộ đội ngũ cán bộ nữ ĐHQGHN nói chung rất lớn.

 Nguyễn Linh Trang (Trung tâm nghiên cứu về Phụ nữ ĐHQGHN) - Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 192, ra tháng 2/2007
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
  • Không có tin nào liên quan!
Trang: