Tin tức & Sự kiện
Trang chủ   >   >    >  
Thầy hiệu trưởng trường tôi năm ấy
Tôi yêu những khía cạnh đời thường của các danh nhân. Tôi thích ngắm nhìn con người từ xa như ngắm sông, ngắm núi. Có thể vì vậy mà, mãi mãi, hình ảnh GS. Nguỵ Như Kontum với mái tóc trắng màu huyền thoại vẫn sống mãi trong tôi như một ông tiên trong cổ tích.

Tôi có anh bạn khi xưa cũng là sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội đi lính một đợt. Sau chiến tranh, chúng tôi may mắn trở về học tiếp, tốt nghiệp ra trường, anh từ chối làm cán bộ giảng dạy, xin lên Lào Cai làm nghề khảo sát địa chất. Tưởng anh làm nghề ấy thì tính tình khô khan, nhưng lâu dần tôi mới biết, tâm hồn anh còn ướt át, ngoằn ngoèo hơn động Phong Nha. Bằng chứng là anh yêu, từ thuở còn khăn đỏ, một cô gái làng quê rất xinh đẹp. Sau gần 30 năm liên lạc, hai người mới bắt đầu tìm được địa chỉ của nhau. Bắt đầu thư từ, thậm chí còn "gọi di động" cho nhau thường xuyên. Vậy mà lạ kỳ, anh cố tình không gặp mặt cố nhân, cho dù có lúc chỉ cách nhau một bức tường. Tôi bảo anh: "Chắc hai vị sợ không làm chủ được bản thân chứ gì?". Anh cười, không nói. Mãi gần đây tôi mới biết, anh sợ khi thấy cô gái mình yêu năm xưa đã là một bà già nhăn nheo, không nhận được ra nhau thì... đau đớn. Anh và cô gái xưa đều sợ phải nhìn nhau, sợ sự thật, sợ thời gian. Họ cố tránh nhau để giữ gìn hình ảnh đẹp đẽ của một thời "xẻ dọc Trường Sơn"...

Câu chuyện tôi kể đầu tiên là chuyện anh bạn sống mãi với mối tình đầu. Ngồi uống cà phê với anh, tôi thầm ghen với anh, vì khi xưa cùng lên đường nhập ngũ, anh đã có trong tim "một bóng hồng". Còn tôi, khi đó tôi chưa biết yêu, từ mái trường ĐH Tổng hợp Hà Nội ra chiến trường, tôi cũng mang theo hình bóng một con người, nhưng lại là một hình ảnh khác biệt hoàn toàn về chất: hình ảnh một người già, hình ảnh vị giáo sư - hiệu trưởng.

GS. Nguỵ Như kontum và vợ

Đúng vậy, cách đây 40 năm, vị hiệu trưởng của ĐH Tổng hợp Hà Nội - tiền thân cơ bản của Đại học Quốc gia Hà Nội hôm nay, là giáo sư Vật lý học Nguỵ Như Kontum. Vào những năm 60, 70 ấy, trường đại học xây cổng rất thấp, thậm chí không có cổng nhưng thí sinh thời ấy vẫn truyền nhau một câu thơ nghe rất tội nghiệp: "Cổng trường đại học cao vời vợi" và chả rõ căn cứ gì mà đánh giá, xếp hạng cho các trường đại học rất lỗ mỗ thế này: "Nhất Y, nhì Dược, tạm được Bách khoa, Sư phạm bỏ qua...". Như vậy là trường ĐH Tổng hợp Hà Nội không được xếp hạng đầu bảng. Anh bạn địa chất của tôi cho rằng trường ĐH Tổng hợp không được xếp vào đó vì hai chữ "tổng hợp" khó hiệp vần. Còn tôi, tôi giải thích theo hướng rất vênh vang: ĐH Tổng hợp là ngoại hạng, thi vào Tổng hợp khó, học cũng khó, phân công công tác cũng khó, vì vậy mà trường ĐH Tổng hợp nằm ngoài tầm ngắm thực dụng của học sinh lớp 10 khi đó mà thôi.

Chọn trường ĐH Tổng hợp để thi, tôi xuất phát từ một ý nghĩ rất hồn nhiên, cảm tính thế này: Đây là trường đại học có một hiệu trưởng nổi tiếng, từng là nghiên cứu sinh của nhà bác học đoạt giải Nobel F.Joliot Curie tại Pháp: Giáo sư Nguỵ Như Kontum. Thử hỏi có trường nào mà tên thầy hiệu trưởng dài như thế, đọc lên ngâm nga, thi vị như thế? Khi nhận được giấy gọi nhập học, tôi còn được nhấm nháp một điều thú vị nữa: Tên thầy hiệu trưởng của tôi không viết bằng chữ C quê mùa, như lâu nay tôi viết, mà viết bằng chữ K, viết liền một mạch: Kontum. Thế mới hiện đại, khoa học, xứng với tầm vóc của trường.

Tôi đeo ba lô lên tàu ra Hà Nội nhập trường với niềm kiêu hãnh và ước mơ được tận mắt trông thấy thầy hiệu trưởng. Nhưng tới nơi, tôi thất vọng. ĐH Tổng hợp Hà Nội mới từ nơi sơ tán trở về, học rất phân tán nên không tổ chức lễ khai giảng. Khoa Ngữ văn chỉ đón sinh viên năm thứ nhất chúng tôi trong một căn phòng đầy bụi đất. Còn thầy giáo lên chúc mừng và dặn dò bọn tôi dĩ nhiên không phải là thầy Nguỵ Như Kontum mà là một thầy phó chủ nhiệm khoa ăn mặc giản dị, xềnh xoàng, không hơn bố tôi ở quê.

Suốt mấy tháng của học kỳ I, tôi nung nấu một "âm mưu" là: phải học thật giỏi, được khen thưởng thì mới có cơ hội được thầy hiệu trưởng bắt tay... Nhưng lần thứ hai tôi lại thất vọng. Dù thi đạt điểm giỏi nhưng tôi không được nhà trường thoả mãn cái nguyện vọng tương tự, vốn có ở hàng trăm sinh viên các khoa. Trường đang có hàng trăm việc cần làm. Hơn nữa, chỉ tiêu của Bộ chỉ huy quân sự Thủ đô đã rót xuống: Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội phải tuyển chọn, cung cấp 400 sinh viên cho các chiến trường. Tên tôi, sau buổi khám nghĩa vụ, đã đứng đầu danh sách trúng tuyển.

Ấy là những ngày thu năm 1971, đêm đêm mặt đường Hà Nội rậm rịch tiếng chân người. Bộ đội hành quân, sinh viên, học sinh, dân quân tự vệ cũng hành quân luyện tập. Lá những hàng cây xà cừ trong ký túc xá Mễ Trì trở thành thứ lá dùng để kết vòng nguỵ trang đẹp nhất và xanh lâu nhất. Bạn bè khoa Văn, khoa Sử chúng tôi có nhiều người viết đơn tình nguyện nhập ngũ, ký tên bằng máu. Sợ mang tiếng là thằng hèn, tôi cũng viết đơn tình nguyên, nhưng trong thâm tâm tôi... tiếc lắm, không muốn tí nào. Tôi thèm học hơn thèm ra trận. Tôi viết đơn tình nguyện nhưng không chích máu đầu ngón tay ký tên, phần vì sợ đau, phần nghĩ rằng: cần tiết kiệm, biết đâu ra trận phải dùng nhiều.

Đầu tháng 9 năm đó, Hà Nội và vùng Bắc Bộ vừa trải qua một trận lụt lớn. Tôi đã tham gia chuyển sách thư viện từ tầng một lên tầng tư, đề phòng đê sông Hồng bị vỡ. Xong việc thư viện, tôi và những người trúng tuyển tặng sách vở, quần áo đang mặc cho những người ở lại, đi người không ra dự lễ xuất quân. Ngẫm nghĩ lại, tôi thấy giấy tờ, thủ tục ra trận là thứ thủ tục được giải quyết nhanh gọn nhất ở đời. Buổi lễ xuất quân ngày mùng 6 tháng 9 năm ấy cũng đi vào ký ức chúng tôi như một buổi lễ nhuốm màu định mệnh.

Buổi lễ được tổ chức trên sân vận động Thượng Đình, nay đã thành vườn hoa của trường ĐH Khoa học Tự nhiên. Các cán bộ "khung", tức là các đồng chí bộ đội đi đón đám tân binh chúng tôi về đơn vị, phải vất vả lắm mới xếp chúng tôi được vào hàng vào lối. Họ phải tách chúng tôi ra khỏi cha mẹ, người thân đưa tiễn. Tôi ở quê xa, không có gia đình ra tiễn nên chỉ vừa bắt tay, vừa đá đít đám bạn trai mấy cái là nhảy vào hàng, đứng nghiêm chỉnh, nhìn lên khán đài trước mặt.

Thầy Nguỵ Như Kontum đã bước lên rồi. Tôi đứng hàng đầu nên nhìn thầy rõ lắm. Đúng là một giáo sư hiệu trưởng bằng xương bằng thịt hẳn hoi. Đây là lần đầu tiên tôi được đứng ngắm thầy lâu như thế. Lần thứ nhất tôi chỉ thấy thấp thoáng nửa người thầy trong dịp khoa Vật lý đón khách quốc tế, thầy đến dự. Lần này thì tôi đứng đối diện hẳn hoi. Có ai đó đọc quyết định nhập ngũ tập thể, ai đó đọc quyết tâm thư. Tôi nghe lơ đễnh, tâm trí dồn vào khuôn mặt vị giáo sư mà tôi ngưỡng mộ.

Giáo sư có đôi mắt trong, cái nhìn ấm áp. Đôi môi hơi dày, cười không lộ răng nên tạo cảm giác hiền lành, đôn hậu. Thầy đứng trên đài cao nên ngay trên đầu Thấy đã là lá cờ đỏ và nền trời xanh. Đang chính thu nên trời xanh lắm, chỉ có vài vệt mây trắng lang thang lướt trong gió sớm. Nếu khán đài dựng cao, hoặc tôi đứng sát khán đài, hẳn sẽ thấy tóc Thầy lẫn vào mây trắng. Tôi nhìn kỹ, ước ao Thầy nhỏ cho chúng tôi mấy giọt nước mắt để... thương chúng tôi như đàn con chuẩn bị ra chiến trường, chưa biết sống chết ra sao( ! ). Nhưng tôi bật cười tự giễu mình vì cái ý nghĩ trẻ con ấy. Trên khán đài Giáo sư đa cảm quá đỗi như tôi nghĩ. Thầy không tỏ ra buồn bã khi chia tay với sinh viên chúng tôi, thậm chí còn nói... chuyện riêng nữa. Có lẽ ông đang tranh thủ lúc Trưởng phòng Tuyên huấn phát biểu, quay sang trao đổi với người bên cạnh. Phải rồi, tiễn quân, đánh giặc đã trở thành chuyện thường ngày. Sau lễ xuất quân, ông còn phải lo cử người cứu kho gạo đang bị lụt ở Yên Viên và bao việc khác nữa.

Nhưng đột nhiên, ở cột cờ trên khán đài vang lên tiếng động răng rắc. Đó là tiếng lạt khô bị đứt. Lá cờ nghiêng nghiêng rồi đổ rập xuống. Có tiếng người thét lên. Cả sân vận động hàng nghìn người cùng à lên một tiếng nửa ngạc nhiên, nửa kinh hãi. Có mấy bà mẹ tiễn con đứng phía xa bật khóc.Anh bạn khoa Địa đứng gần tôi thì cười. Tôi lo lắng nhìn thầy hiệu trưởng. Thầy không tỏ ra giận dữ vì sự chuẩn bị khinh xuất của cấp dưới nhưng khuôn mặt Thầy buồn hẳn đi.

Sau khi dựng lại cờ, lễ xuất quân được kết thúc nhanh chóng. Ngoài câu nói: "Chiến thắng trở về, Trường sẽ mở rộng cửa đón các em", tôi không nhớ thầy hiệu trưởng nói thêm gì nữa. Sau sự cố của nghi lễ, tâm trạng mọi người, cả người nói lẫn người nghe, đều bị phân tán. Có điều là khuôn mặt buồn bã của thầy Nguỵ Như Kontum vì lá cờ xuất quân bị đổ đã rơi sâu vào ký ức chúng tôi.

Mấy trăm sinh viên đợt ra quân ấy được đưa vào sư đoàn 325 huấn luyện gấp rút để bổ sung cho các chiến trường phía nam. Tiểu đoàn sinh viên chúng tôi khi hát tập thể bài "Vì nhân dân quên mình" đến đoạn "...ngày ngày lo sao cho toàn dân ấm, toàn dân no, được học hành" là tất cả lại tủm tỉm cười, dồn hơi, hát lên ba tiếng cuối: "được học hành, được học hành...". Các cán bộ chỉ huy rất bực mình vì cái tiếng thét "thiếu lập trường ấy" của lính tráng sinh viên. Nhưng ngẫm lại, tiếng thét nghịch ngợm ấy là tiếng lòng đích thực, bộc lộ nguyện vọng chính đáng, sâu xa của tuổi trẻ khi phải cầm súng ra trận. Mọi cuộc chiến tranh đều là cái nhất thời để hướng tới cái muôn thuở là hoà bình, tình yêu, là học hành, sáng tạo. Riêng tôi, trong những ngày tháng khốc liệt của chiến dịch Quảng Trị -1972, tôi luôn tự động viên mình rằng: tôi và đồng đội chiến đấu không chỉ giải phóng miền Nam mà còn để bảo vệ chính trường ĐH Tổng hợp của mình, bảo vệ những toà nhà mà sau chiến tranh chúng tôi sẽ trở về học tiếp. Khuôn mặt buồn bã của thầy Nguỵ Như Komtum cùng tiếng thét của các bà mẹ tiễn con lên đường hiện ra trong tôi như một ám ảnh. Sau nhiều lần chết hụt, cuối cùng rồi bị thương, tự nhiên tôi có một ý nghĩ rất chủ quan rằng : tôi không thể chết được và những sinh viên trẻ chúng tôi không chết, chúng tôi sẽ thắng. Cờ suý đổ nhưng sinh viên Tổng hợp chúng tôi ra quân sẽ chiến thắng trở về. Chúng tôi sẽ trở về để xua đi nỗi buồn trên gương mặt thầy hiệu trưởng.

Mà đúng vậy, sau chiến tranh, cùng dân tộc, chúng tôi đều là những người chiến thắng. Tuy nhiên, chúng tôi không về hết. Bốn trăm người xuất quân ngày ấy, chỉ khoảng không đầy năm chục người không về, nằm lại rải rác trên các nghĩa trang Quảng Trị. Chúng tôi - những người may mắn trở về trường học tiếp và lại được gặp thầy hiệu trưởng.

 Sau chiến tranh, khuôn mặt ông không còn được hồng hào như trước, duy chỉ mái tóc là vẫn thế. Nó vốn đã bạc từ xưa, không thể bạc hơn được nữa. Không như chúng tôi hình dung ngày nhập ngũ, thầy hiệu trưởng và trường ĐH Tổng hợp Hà Nội không làm lễ đón chúng tôi trở về. Thậm chí có anh bạn tôi bị thương nặng, về làm thủ tục học tiếp, còn phải dùng nạng dọa cán bộ hộ khẩu mới xong việc. Cuộc sống thời bình là vậy. Trong chiến tranh ai chả hình dung tương lai như một chân trời hồng. Mà không lãng mạn, làm sao ta thắng Mỹ.

 Chúng tôi học tiếp chương trình đại học, và "học như điên", truy lĩnh khoảng thời gian đã mất trong chiến tranh. Anh bạn khoa Địa của tôi tốt nghiệp, xin công tác ở Lào Cai. Anh từ chối Bộ môn, phần vì không thích cuộc sống Hà Nội tù túng, phần vì cuộc sống của cán bộ giảng dạy ĐH Tổng hợp HN lúc bấy giờ eo hẹp, khó khăn quá. Cái nguyên nhân kinh tế này anh đã vô tình thú nhận vào một dịp hai chúng tôi cùng gặp thầy Nguỵ Như Kontum.

Hôm ấy, từ Lào Cai trở về, anh đến ký túc xá Mễ Trì rủ tôi đi ăn phở. Giữ sĩ diện là CBGD đại học, tôi định bụng sẽ trả tiền phở, quyết không để khách đãi chủ. Để làm được điều này, tôi bí mật vay tiền, hẹn người ta đầu tháng sẽ trả, chuẩn bị đón anh. Hai chúng tôi đang đèo nhau trên xe đạp qua khu Thượng Đình - Cao Xà Lá thì anh nhảy xuống xe, bảo tôi chờ một lát. Tôi chờ, một lúc sau anh quay lại, mồ hôi nhễ nhại. "Cậu làm gì thế?", tôi hỏi. "Giúp thầy Kontum, thủ trưởng cậu đấy!". "Làm gì mà giúp?". "Đẩy xe cho Cụ, cậu không thấy à? Nhưng đẩy mãi không nổ, tớ thôi. Cậu không thấy cụ đang rông bộ theo xe kia à?".

Tôi nhìn theo xe anh chỉ. Đúng là chiếc xe màu sữa đã ngả màu cháo lòng quen thuộc của trường ĐH Tổng hợp đang được ba người còng lưng đẩy đít. Cách đó một quãng, Giáo sư Kontum cũng đang cố rảo chân bước theo xe, có vẻ như sợ xe nổ được máy thì nó chạy mất. Lâu nay tôi vẫn nghe có người xì xào rằng xe thầy Kontum rất hay chết máy. Bởi vì trường nghèo, không có tiền đại tu hoặc định chờ xe hỏng hẳn rồi mua chiếc khác. Nhưng cũng có người bạo miệng bình luận rằng: Tại Thầy hiền quá, "mấy anh" nó cóc sợ, nhất là biết Thầy sắp về hưu. Thậm chí lái xe còn tự gây chết máy, lừa thầy để xin tiền bồi dưỡng...

Anh bạn Địa chất bảo tôi: "Cậu thấy chưa, tiếng tăm lừng lẫy như cụ là cùng, thế mà vẫn phải đi ô tô kiểu... cuốc. Cậu là cái thá gì, xin chuyển công tác, ra khỏi trường đi!".

Ăn phở xong, anh kiên quyết giữ cổ tay tôi lại, không cho trả tiền, để anh trả. Anh bảo: "Nói thế thôi, chứ cấm cậu bỏ trường. Phải ở Hà Nội cho tớ có chỗ thỉnh thoảng đi về, chửi cho sướng miệng".

Thực hiện lời dặn của anh, tôi vẫn ở lại trường giảng dạy, cam chịu phận nghèo. Năm 1982, GS.Nguỵ Như Kontum về hưu, chuyển sang làm chuyên viên cho trường và Viện Khoa học Việt Nam, đồng thời giữ chức Chủ tịch Hội Vật lý Việt Nam. Thỉnh thoảng tôi lại trông thấy Thầy dưới bóng mấy cây bàng đầu hồi nhà Liên hợp. Mỗi năm bước chân thầy một chậm lại. Nhịp sống thời hậu chiến cũng chậm lại như bước chân người già. Thắng lợi về quân sự dễ trở thành tiền đề cho những ảo tưởng về kinh tế. Sự vụng về, khinh suất của ta trong quản lý và phát triển kinh tế thời ấy làm nông dân chán ruộng, trí thức thiếu gạo ăn. Một hôm, tổ Bộ môn Lý luận và Văn học Việt Nam chúng tôi tổ chức liên hoan cho GS. Hoàng Xuân Nhị về hưu. Vì là liên hoan cấp bộ môn nên chỉ có kẹo vừng và mấy chiếc bánh cốm, đặt trên dãy bàn học long chân trong một căn phòng "bỏ hoang" ở tập thể Lò Đúc. GS. Nhị khi ấy rất vui, vừa ăn, vừa cười, vừa kể chuyện rất sôi nổi. Một lát sau, chúng tôi giật mình vì có vị khách đột ngột rẽ vào phòng. Đó là GS. Nguỵ Như Kontum. Hai vị giáo sư già ôm nhau sung sướng như đôi tình nhân đã phải xa nhau lâu lắm. Hai vị chuyện trò không dứt, thỉnh thoảng lại suỳ ra một tràng tiếng Pháp. Có vẻ như hai cụ đang ôn lại một thời trai trẻ oanh liệt ở các học đường Paris. Thầy Nhị bóc bánh cốm cho thầy Tum ăn. Tôi trông mà phát ngại. Bánh cốm thời bấy giờ thuộc loại bánh quý tộc, sang trọng đấy, nhưng không rõ ai mua mà tôi nếm thấy có vẻ bánh ế, nhân đậu đã chua, dễ đau bụng lắm, nhất là bụng người già. Hơn nữa, tay thầy Nhị không được sạch. Thầy nghiện thuốc, ngón tay vàng khè, đã thế lại còn hay gãi. Vậy mà thầy Tum không biết vẫn ăn ngon lành, miệng cười tươi, cảm ơn bạn. Chẳng lẽ chặn tay hai cụ lại, chúng tôi đành bất lực, đứng chứng kiến cảnh hàn huyên say sưa, trong lòng cầu mong cho hai giáo sư đêm về vẫn "tốt bụng".

Một lát sau đôi bạn già tiễn nhau ra cửa. Thầy Tum bảo bạn:

 - Về hưu rồi, tôi đói lắm anh ạ.

- Anh nói gì nghe kỳ vậy? - Thầy Nhị ngạc nhiên.

Thầy Tum trả lời nho nhỏ nhưng tôi nghe rất rõ:

- Lúc làm hiệu trưởng hay được anh em mời dự tiệc. Nay về hưu, ít tiệc lắm. Sống chỉ bằng lương hưu, thèm đủ thứ.

Tôi nghe thầy nói mà sống mũi cay cay, thương thầy quá đỗi. Tôi nghĩ, thời đầu Thế chiến thứ hai, nếu Thầy không nghe lời nhà bác học J.Curie, khuyên thầy về nước, thì chắc chắn ở Paris, nhà vật lý Việt kiều yêu nước sẽ không biết phát âm tiếng "đói", nghe nặng lòng đến vậy.

Năm 1991, tôi đi nghiên cứu sinh về nước được mấy tháng, chưa có dịp gặp lại Thầy đã nghe tin Thầy mất. GS. Hoàng Xuân Nhị mất trước, GS. Nguỵ Như Kontum mất sau. Hai người như rủ nhau đi. Lễ viếng thầy Nguỵ Như Kontum được tổ chức tại 19 Lê Thánh Tông - nơi 35 năm trước, năm 1956, Thầy đã long trọng khai giảng khoá học đầu tiên của ĐH Tổng hợp Hà Nội, một đại học khoa học cơ bản đầu ngành mà mình phải giữ trọng trách Hiệu trưởng hơn một phần tư thế kỷ.

Lễ viếng thầy đông chưa từng thấy. Giáo sư Bộ trưởng Trần Hồng Quân nghẹn ngào đọc diễn văn:

"...GS. Nguỵ Như Kontum là một hình ảnh đẹp đẽ và vô cùng trong sáng của một trí thức cách mạng. Giáo sư không còn nữa, nhưng lòng yêu nước, cuộc đời hoạt động cách mạng tận tụy của giáo sư là một tấm gương sáng cho toàn Ngành chúng ta noi theo và học tập. Vĩnh biệt giáo sư, toàn ngành Giáo dục và Đào tạo cùng trường ĐH Tổng hợp Hà Nội nguyện đem hết sức mình phấn đấu cho sự nghiệp giáo dục của nhân dân ta vươn lên tầm cao mới, để phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp như giáo sư hằng mong ước và đã cống hiến trọn đời mình...".

Với cảm giác trống vắng vì sự mất mát, tôi cắm mặt viếng qua linh cữu của Thầy. Tôi cố tình không nhìn lần cuối gương mặt thầy qua tấm kính áo quan. Biết đâu… khuôn mặt Người đã khác quá xa khuôn mặt mà tôi và bao sinh viên Tổng hợp từng hồi tưởng trong những đêm mất ngủ ở chiến trường! Tôi sợ cái quy luật sinh hóa nghiệp ngã đã phá vỡ gương mặt đôn hậu của thầy mình.

Đến bây giờ tôi mới thấy anh bạn Địa chất của tôi sáng suốt. Anh và người anh yêu không chịu gặp nhau là để bảo vệ gương mặt tuổi xuân trong lòng nhau. Có lẽ người ta cần biết sống với những biểu tượng và giữ gìn những biểu tượng của mình... Không được trực tiếp học Thầy và gần gũi Thầy, tôi không thể và cũng không muốn xây dựng một chân dung khoa học hay "chân dung lãnh đạo" trang trọng về Thầy. Tôi yêu những khía cạnh đời thường của các danh nhân. Tôi thích ngắm nhìn con người từ xa như ngắm sông, ngắm núi. Có thể vì vậy mà, mãi mãi, hình ảnh GS. Nguỵ Như Kontum với mái tóc trắng màu huyền thoại vẫn sống mãi trong tôi như một ông tiên trong cổ tích.

Bách khoa, 30/5/2004

 Phạm Thành Hưng
- Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan