Tin tức & Sự kiện
Trang chủ   >   >    >  
Định hướng triển khai tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ ở ĐHQGHN
(Toàn văn báo cáo đề dẫn tại buổi toạ đàm về việc triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ tại ĐHQGHN do GS.TS Mai Trọng Nhuận - Phó Giám đốc ĐHQGHN trình bày)

Mở đầu

Chủ trương của Đảng và Nhà nước, của ĐHQGHN về việc đào tạo theo tín chỉ đã rõ ràng (xin xem phụ lục1). Để thực hiện chủ trương đó, ĐHQGHN cần xác định các giải pháp, lộ trình tổ chức đào tạo theo tín chỉ trên cơ sở lý luận và thực tiễn, kinh nghiệm của các trường đại học trong và ngoài nước, điều kiện cụ thể của ĐHQGHN.

Báo cáo đề dẫn sẽ trình bày những nội dung cơ bản này.

1. Nội dung, bản chất của học chế tín chỉ

1.1. Khái niệm “tín chỉ”

Trong các từ điển bách khoa, các tài liệu về giáo dục đại học có nhiều định nghĩa khác nhau về tín chỉ, chúng tôi sẽ không trình bày ở đây. Định nghĩa của James Quann (Đại học Quốc gia Washington) trong buổi thuyết trình về hệ thống đào tạo theo tín chỉ tại Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hoa Trung ở Vũ Hán mùa hè năm 1985 trước các chuyên gia của 28 trường đại học hàng đầu Trung Quốc, giúp chúng ta hiểu rõ nhất về tín chỉ, theo đó tín chỉ học tập là một đại lượng đo toàn bộ thời gian bắt buộc của một người học bình thường để học một môn học cụ thể, bao gồm: 1) thời gian lên lớp; 2) thời gian ở trong phòng thí nghiệm, thực tập hoặc các phần việc khác đã được quy định ở thời khoá biểu; và 3) thời gian dành cho đọc sách, nghiên cứu, giải quyết vấn đề, viết hoặc chuẩn bị bài...; đối với các môn học lý thuyết 1 tín chỉ là một giờ học trên lớp (với 2 giờ chuẩn bị ở nhà) trong 1 tuần và kéo dài trong 1 học kỳ 15 tuần; đối với các môn học ở studio hay phòng thí nghiệm - ít nhất là 2 giờ trong 1 tuần (với 1 giờ chuẩn bị ở nhà); đối với việc tự nghiên cứu - ít nhất là 3 giờ làm việc trong 1 tuần [1].

1.2. Chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ

· Đặc điểm thứ nhất

Có khối lượng 120 - 140 tín chỉ (chương trình của các trường đào tạo 4 năm với 2 học kỳ mỗi năm theo kiểu Mỹ). Thí dụ: chương trình đào tạo của Đại học Missouri - Columbia (Mỹ) có ít nhất 120 giờ tín chỉ, kể cả các môn hoạt động thể chất bắt buộc (University of Missouri - Columbia; Undergraduate Catalog 2004 - 2006); chương trình đào tạo đại học của Đại học Tokyo (Nhật Bản) có ít nhất 136 tín chỉ đối với các ngành khoa học nhân văn, hoặc 144 tín chỉ đối với các ngành khoa học tự nhiên (The University of Tokyo, Catalogue for 2000 - 2001), chương trình đào tạo đại học đối với đa số ngành của Đại học Quốc gia Đài Loan là 128 tín chỉ (trừ ngành y - 290 tín chỉ, nha khoa - 255 tín chỉ, thú y - 170 tín chỉ với tổng số thời gian học dài hơn) [National Taiwan University, Bulletin 2004].

· Đặc điểm thứ hai

Khung chương trình thể hiện đầy đủ bản chất của học chế tín chỉ, xác định rõ mỗi môn học có: a) thời gian học trên lớp, b) thời gian học trong phòng thí nghiệm, thực tập, thực hành ở hiện trường, c) thời gian tự đọc sách, nghiên cứu, làm bài tập, chuẩn bị xê-mi-na ở nhà.

· Đặc điểm thứ ba

Ngoài các môn bắt buộc, trong chương trình đào tạo có nhiều môn học cho sinh viên lựa chọn và khi đã đưa vào chương trình các môn học này đảm bảo có người dạy. Do đó, số môn học mà nhà trường tổ chức giảng dạy cho một chương trình bao giờ cũng có tổng số tín chỉ lớn hơn số tín chỉ quy định mà một sinh viên phải tích luỹ để hoàn thành chương trình đó. Như thế, với sự hướng dẫn của giảng viên cố vấn học tập, sinh viên có thể xây dựng được kế hoạch học tập phù hợp với riêng mình. Xin minh họa bằng một số thí dụ cụ thể: Để hoàn thành chương trình cử nhân, sinh viên khoa Văn học Trung quốc của Đại học Quốc gia Đài Loan phải học 128 tín chỉ (khoảng 52 môn học) trong khi khoa tổ chức giảng dạy 65 môn với tổng số tín chỉ là 292. Sinh viên khoa Quản trị kinh doanh của Viện Đại học Quốc gia Yokohama Nhật Bản cũng phải học 128 tín chỉ để hoàn thành một chương trình cử nhân, trong đó có:

./,/ * 8 tín chỉ thuộc các môn khoa học nhân văn chọn trong 15 môn nhà trường dạy với tổng số tín chỉ là 60;

* 8 tín chỉ thuộc các môn khoa học xã hội chọn trong 12 môn nhà trường tổ chức dạy với tổng số tín chỉ là 34;

* 12 tín chỉ thuộc các môn khoa học tự nhiên chọn trong 20 môn trường tổ chức dạy với tổng số tín chỉ là 64;

* 12 tín chỉ tiếng Anh, nhà trường dạy 4 môn với đúng 12 tín chỉ;

* 8 tín chỉ các thứ tiếng nước ngoài khác, nhà trường dạy các thứ tiếng Đức, Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Nga, mỗi môn đúng 8 tín chỉ; sinh viên được chọn một trong các thứ tiếng ấy.

* 4 tín chỉ giáo dục thể chất, trong đó có 2 tín chỉ lý thuyết và 2 tín chỉ thực hành;

* 76 tín chỉ các môn chuyên ngành.

Trong khi sinh viên phải tích lũy 76 tín chỉ các môn chuyên ngành thì số tín chỉ được tổ chức giảng dạy cũng lớn hơn nhiều:

* Ngành Quản trị kinh doanh dạy 38 môn với tổng số tín chỉ là 114;

* Ngành Khoa học quản lý dạy 36 môn với tổng số tín chỉ là 92;

* Ngành Kế toán và thông tin dạy 37 môn với tổng số tín chỉ là 100;

* Ngành Kinh doanh quốc tế dạy 37 môn với tổng số tín chỉ là 110.

[Yokohama National University; Catalogue 1992-1993]

Ở Đại học Quốc gia Hà Nội, trong bộ chương trình chính thức đã công bố (Chương trình đào tạo đại học; NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004), phần lớn ngành đào tạo cũng đã có các môn học lựa chọn. Thí dụ, chương trình đào tạo

ngành Địa lý của Trường Đại học Khoa học Tự nhiên yêu cầu sinh viên tích luỹ 213 đơn vị học trình thì nhà trường công bố 148 môn học với tổng số đơn vị học trình là 370. Tuy nhiên, trong thực tế khả năng lựa chọn của sinh viên rất ít, vì các đơn vị đào tạo không có người dạy tất cả các môn học đã công bố và cũng chưa tổ chức cho sinh viên đăng ký các môn học theo sự lựa chọn của họ. Do vậy, tình hình chung là sinh viên học các môn học theo thời khoá biểu do nhà trường sắp xếp và công bố.

· Đặc điểm thứ tư

Tạo điều kiện thuận lợi cho người học lựa chọn, bố trí kế hoạch học tập phù hợp với điều kiện và khả năng của mình.

1.3. Phương pháp dạy và học trong học chế tín chỉ

1.3.1. Ngoài việc truyền đạt kiến thức, giảng viên tập trung lao động của mình vào việc hướng dẫn và giao nhiệm vụ cho sinh viên tự tìm kiếm kiến thức ở ngoài lớp học. Việc giảng viên hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho sinh viên và đánh giá kết quả thực hiện được thể hiện trong đề cương môn học (syllabus) mà mỗi giảng viên bắt buộc phải có và phát cho sinh viên trước hoặc ngay trong buổi lên lớp đầu tiên. Một tài liệu hướng dẫn các giảng viên đại học viết đề cương môn học ở Mỹ [9], đưa các nội dung chủ yếu sau đây vào đề cương môn học: a) thông tin về môn học: tên môn học, mã môn học, số tín chỉ, có môn học tiên quyết hay không, địa điểm phòng học, các ngày và giờ học trên lớp, ở phòng thí nghiệm, ở studio v.v; b) thông tin về giảng viên: họ tên, chức danh, địa điểm phòng làm việc, giờ làm việc, số điện thoại phòng làm việc (có thể cả số điện thoại nhà riêng), tên người làm trợ lý giảng dạy (teaching assistant - nếu có), địa điểm làm việc và số điện thoại của người này; c) giáo trình (tên giáo trình, tác giả, năm xuất bản, nhà xuất bản, ở đâu có), tài liệu bổ sung (tài liệu ấy bắt buộc hoặc khuyến khích đọc)các tài liệu khác như thiết bị thí nghiệm, các tác phẩm nghệ thuật, máy tính loại đặc biệt hoặc thậm chí computer v.v.; d) mục tiêu và nội dung tóm tắt môn học; e) lịch học và chủ đề của các buổi học, ngày thi, ngày kiểm tra ngắn (quizz) hoặc các cách đánh giá khác, thời hạn nộp các bài tập nghiên cứu, các sự kiện đặc biệt bắt buộc như nghe diễn giả nói chuyện, xem kịnh hoặc ca nhạc, đi điền dã v.v. g) chính sách đối với môn học (course policies), thí dụ, yêu cầu về chuyên cần (có mặt) trên lớp; đi học muộn sẽ bị phạt ra sao; thái độ học tập trên lớp được đánh giá như thế nào; vắng mặt trong kỳ thi hoặc không nộp bài tập nghiên cứu sẽ được xử lý như thế nào; vấn đề an toàn và sức khoẻ khi làm việc trong phòng thí nghiệm ra sao; việc quay cóp, sử dụng trái phép tài liệu nghiên cứu của người khác sẽ bị xử lý thế nào, và h) cách đánh giá kết quả môn học.

1.3.2. Do sinh viên đã tự nghiên cứu ở nhà, trong thư viện, trong phòng thí nghiệm… nên trên lớp giảng viên không truyền thụ đầy đủ các kiến thức đã được trình bày trong giáo trình, tài liệu tham khảo mà thực hiện các công việc sau để hướng dẫn sinh viên tích luỹ kiến thức, kỹ năng và nâng cao hứng thú học tập, lòng yêu khoa học cũng như ngành đào tạo đã lựa chọn: a) giải thích những vấn đề mà giảng viên cho là sinh viên sẽ gặp khó khăn khi tự đọc, tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu; b) nhấn mạnh những vấn đề mà sinh viên cần chú ý trong giáo trình và tài liệu tham khảo mà giảng viên đã yêu cầu sinh viên đọc; c) hướng dẫn sinh viên thảo luận những vấn đề trong những tài liệu mà sinh viên đã đọc, hoặc những bài nghiên cứu mà giảng viên yêu cầu mỗi sinh viên thực hiện; d) theo dõi các ý kiến thảo luận của sinh viên, qua đó uốn nắn, giải thích những nội dung sinh viên hiểu chưa đúng; e) giới thiệu các nhà khoa học và những vấn đề học thuật đang được tranh luận, những vấn đề cần được nghiên cứu liên quan đến ngành học; g) thông qua giờ lên lớp & thảo luận, đánh giá thái độ và kết quả học tập trên lớp và tự học ở nhà của sinh viên cũng như kiến thức mà sinh viên thu nhận được, đồng thời công bố cho sinh viên biết ý kiến đánh giá của mình; h) tổ chức kiểm tra ngắn, đột xuất với cả lớp hoặc với một số sinh viên bằng hình thức nói hoặc viết để thúc đẩy sinh viên thường xuyên học tập; i) trả bài kiểm tra, bài tập nghiên cứu của sinh viên và có nhận xét về các bài làm đó; k) hướng dẫn sinh viên những điều cần chú ý khi làm thí nghiệm, đi thực tập, thực tế; và l) những nội dung cần thiết khác. Tuỳ theo từng buổi lên lớp mà giảng viên lựa chọn các công việc phù hợp trong các việc được nêu trên.

1.3.3. Sinh viên học tập theo sự hướng dẫn, kiểm tra, đánh giá của giảng viên: nghe giảng, thảo luận trên lớp; tự học, tự nghiên cứu, làm bài tập, viết báo cáo ở nhà, thư viện; làm việc trong phòng thí nghiệm, đi thực tế, điền dã theo các yêu cầu mà giảng viên đã nêu trong đề cương môn học và tham khảo ý kiến giảng viên trong các dịp tiếp xúc trực tiếp hoặc trao đổi bằng điện thoại, e-mail.

1.4. Phương pháp kiểm tra, đánh giá trong học chế tín chỉ

Theo cách đào tạo kiểu niên chế trong các trường đại học của ta hiện nay, kết quả học tập môn học (học phần) của sinh viên được đánh giá bằng điểm thi kết thúc học phần. Điều 8, Quy chế đào tạo đại học ban hành theo Quyết định số 04/1999/QĐ-BGD&ĐT ngày 11/2/1999 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT: “Điểm để đánh giá kết quả học tập của học phần lý thuyết là điểm thi kết thúc học phần”; đối với các học phần có cả thực hành và lý thuyết thì phần thực hành đạt được coi là đủ điều kiện để được xét dự thi phần lý thuyết và “điểm thi phần lý thuyết là điểm thi kết thúc học phần”. Quy định này không buộc sinh viên phải cố gắng học tập thường xuyên và do vậy họ chỉ tập trung học vào thời gian chuẩn bị thi kết thúc học phần. Đại học Quốc gia Hà Nội đã khắc phục nhược điểm trên bằng cách quy định: “Điểm cuối cùng để đánh giá một học phần (gọi là điểm của học phần) được tính như sau: - Đối với học phần lý thuyết thì điểm học phần là trung bình cộng có hệ số của các điểm kiểm tra và điểm của bài thi kết thúc học phần...; - Đối với học phần có các bài thực hành thì điểm của học phần được tính dựa vào điểm thi kết thúc học phần và điểm kiểm tra phần thực hành... (Điều 32 Quy chế đào tạo đại học ban hành theo Quyết định số 10/ĐT ngày 4/2/2004 của Giám đốc ĐHQGHN). Tuy nhiên, quy định trên vẫn chưa đủ để buộc sinh viên thường xuyên học tập trong suốt quá trình theo học.

Trong học chế tín chỉ người ta đánh giá kết quả học tập của sinh viên không chỉ bằng các bài kiểm tra và bài thi cuối môn học mà còn bằng cách đánh giá: a) các hoạt động trên lớp (số buổi có mặt, thái độ theo dõi bài giảng, thảo luận), b) tự học ở nhà (qua nội dung phát biểu thảo luận trên lớp, thời gian và chất lượng hoàn thành bài tập ở nhà do giảng viên giao), c) làm việc trong phòng thí nghiệm, đi thực tế, d) bài thi kết thúc môn học. Sinh viên cũng được thông báo về cách thức và trọng số đánh giá kết quả học tập như trên ngay từ khi bắt đầu học môn học trong bản đề cương môn học (syllabus) mà giảng viên phát cho mình và được thể hiện trong các quy định pháp lý của nhà trường. Việc đánh giá liên tục các hoạt động học tập làm giảm nhẹ sức ép của thi cử cuối học kỳ, làm giảm tình trạng nhồi nhét kiến thức để lo thi và do vậy cho phép sinh viên hiểu và yêu thích môn học, nâng cao khả năng tự học theo kiểu nghiên cứu.

1.5.Quản lý đào tạo trong học chế tín chỉ

1.5.1. Các trường đại học tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ hằng năm đều xuất bản một cuốn sách gọi là "Catalog" (Catalogue), "Bulletin", hoặc "Calendar", trong đó ngoài các phần giới thiệu lịch sử thành lập và phát triển của trường, sứ mệnh của trường, cơ cấu tổ chức của trường, các đơn vị trong trường… một phần lớn cuốn sách dành cho việc thông báo những yêu cầu mà người học phải thực hiện để được tốt nghiệp ngành đào tạo: tổng số tín chỉ phải tích luỹ để được tốt nghiệp, tổng số tín chỉ tối thiểu phải tích luỹ từng năm đối với người học toàn thời gian (full - time) và bán thời gian (part - time), số tín chỉ tối thiểu, tối đa được đăng ký học trong từng học kỳ; thời gian và địa điểm có thể gặp cố vấn để được hỏi ý kiến trong việc xây dựng kế hoạch học tập cho mình; cách thức đăng ký học môn học hoặc rút việc đăng ký học môn học, cách kiểm tra - đánh giá, cách xếp hạng kết quả môn học và cách tính điểm trung bình chung v.v. Cuốn sách cũng giới thiệu cụ thể từng môn học (mã số, số tín chỉ, nội dung tóm tắt, môn tiên quyết…) để sinh viên nghiên cứu và đăng ký học.

Những thông tin trên đây cũng được các trường đưa vào các trang web giới thiệu trường, tiện cho sinh viên nghiên cứu.

1.5.2. Lớp học không phải là một đơn vị hành chính mà được tổ chức theo môn học do sinh viên đăng ký. Hằng năm nhà trường công bố các môn học sẽ được tổ chức giảng dạy trong năm đó (trong các cuốn Catalog, Bulletin, Calendar nói trên). Sinh viên đăng ký học các môn học trong thời gian nhà trường đã công bố. Nếu số sinh viên đăng ký học một môn học quá đông so với điều kiện của phòng học thì nhà trường chỉ xếp những sinh viên nằm trong số lượng quy định đăng ký sớm hơn hoặc đạt một số yêu cầu do ngành học đặt ra được học và thông báo ngay cho số sinh viên còn lại đăng ký môn học khác hoặc chờ năm học sau. Nếu số sinh viên đăng ký học một môn học quá ít, nhà trường sẽ không tổ chức đào tạo và cũng sẽ thông báo cho sinh viên biết ngay để chọn môn học khác.

1.5.3. Quản lý hoạt động giảng dạy của giảng viên

a) Giảng viên phải biên soạn và nộp bản đề cương môn học (syllabus) cho khoa/bộ môn;

b) Hệ thống quản lý theo dõi, kiểm tra việc giảng viên thực hiện đề cương môn học nói trên;

c) Trường/khoa tổ chức cho sinh viên nhận xét về công việc giảng dạy của giảng viên. Việc lên lương, bổ nhiệm có dựa vào kết quả giảng dạy, đánh giá của cơ quan quản lý và nhận xét của sinh viên.

1.5.4. Quản lý học tập của sinh viên

a) Dựa vào catalog do nhà trường công bố, đề cương môn học do giảng viên cấp cho sinh viên;

b) Sinh viên tham khảo ý kiến của giảng viên cố vấn để xây dựng kế hoạch học tập phù hợp với mình và đăng ký với khoa/trường;

c) Giảng viên đánh giá liên tục các hoạt động học tập của sinh viên, báo cáo cho phòng đào tạo và cho sinh viên biết;

d) Căn cứ vào số tín chỉ mà sinh viên tích luỹ được, nhà trường xếp sinh viên vào loại năm (thứ nhất, thứ hai ...) phù hợp (Chẳng hạn, cuối mỗi học kỳ Đại học Michigan State (Mỹ) xếp loại sinh viên như sau: tích luỹ dưới 28 tín chỉ là sinh viên năm thứ nhất, 28 đến 55 tín chỉ là sinh viên năm thứ hai, 56 đến 87 tín chỉ là sinh viên năm thứ ba, từ 88 tín chỉ trở lên là sinh viên năm thứ tư).

1.5.5. Mỗi khoa có một đội ngũ cố vấn học tập (adviser). Cố vấn học tập là những người am hiểu cấu trúc chương trình, nội dung của các khối kiến thức có trong chương trình, nội dung và vị trí của từng môn học được nhà trường tổ chức giảng dạy. Các cố vấn này hướng dẫn sinh viên lựa chọn các môn học để xây dựng kế hoạch học tập riêng, vừa phù hợp với yêu cầu của ngành đào tạo, vừa phù hợp với điều kiện riêng của sinh viên (năng lực, sở thích, điều kiện sinh hoạt, hoàn cảnh kinh tế). Bản đăng ký các môn học của sinh viên phải có chữ ký của cố vấn học tập xác nhận là đã được tham khảo ý kiến mới được nhà trường xem xét để xếp lớp học.

1.5.6. Khi sinh viên thực hiện đầy đủ các quy định của nhà trường, tích luỹ kiến thức thông qua việc tích luỹ đủ số tín chỉ quy định cho chương trình theo sự hướng dẫn của cố vấn học tập, họ sẽ được cấp bằng tốt nghiệp. Sinh viên toàn thời gian và sinh viên bán thời gian tuy học chung nhưng được xét tốt nghiệp ở những thời điểm khác nhau, tuỳ theo thời gian họ hoàn thành toàn bộ chương trình học tập.

1.5.7. Quản lý đào tạo được tin học hoá tối đa bằng các phần mềm chuyên dụng thống nhất trong toàn đơn vị đào tạo. Để đảm bảo liên thông, liên kết phối hợp tổ chức đào tạo giữa các ngành, việc quản lý đào tạo thường được tổ chức tập trung ở phòng đào tạo của nhà trường với đội ngũ quản lý tinh thông nghiệp vụ và có tính chuyên nghiệp cao.

Có lẽ còn nhiều đặc điểm cụ thể khác trong công tác quản lý đào tạo ở các trường đại học các nước phát triển đang tổ chức đào tạo theo hệ thống tín chỉ cần được tiếp tục tìm hiểu.

1.6. Những khó khăn khi tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ ở ĐHQGHN

Theo chúng tôi, việc triển khai tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ gặp nhiều khó khăn, lúng túng và khi triển khai thì không đạt kết quả mong muốn vì ba lý do chủ yếu sau:

1. Thứ nhất, đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên của ta chưa hiểu biết đúng và đầy đủ về việc đào tạo theo học chế tín chỉ;

2. Thứ hai, ta chưa chuẩn bị đầy đủ điều kiện, đặc biệt là khung chương trình chưa chuẩn bị theo yêu cầu của học chế tín chỉ, thiếu kinh nghiệm và kỹ năng dạy học, kiểm tra, đánh giá theo phương pháp tiên tiến (sẽ được trình bày ở mục 2 dưới đây) để tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ. Lý do này cũng xuất phát từ lý do thứ nhất: Do chưa hiểu biết đúng và đầy đủ về học chế tín chỉ nên chưa chuẩn bị đầy đủ điều kiện trước khi thực hiện;

3. “Quán tính” dạy - học và quản lý đào tạo theo kiểu niên chế còn rất lớn.

2. Các điều kiện cần thiết để triển khai tổ chức đào tạo theo tín chỉ ở ĐHQGHN

2.1. Có đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đào tạo theo tín chỉ

* Đội ngũ này phải hiểu đúngđầy đủ về học chế tín chỉ. Phải có tài liệu hướng dẫn chi tiết về tổ chức và quản lý đào tạo theo hệ thống tín chỉ; tổ chức nhiều hội thảo, toạ đàm trong đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên với sự tham gia, hướng dẫn của các chuyên gia. Cần thành lập một nhóm chuyên gia tìm hiểu về vấn đề này: thu thập và nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài nước về học chế tín chỉ; tìm hiểu tình hình tổ chức đào tạo theo tín chỉ của các trường đại học trong nước và một số trường đại học nước ngoài; tổ chức hội thảo trong nhóm về tín chỉ và lộ trình chuẩn bị đào tạo theo tín chỉ; biên soạn tài liệu hướng dẫn tổ chức và quản lý đào tạo theo học chế tín chỉ. Sau khi nhóm chuyên gia hoàn thành các công việc trên sẽ tổ chức các cuộc hội thảo trong đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên và nhân viên để mọi người hiểu về học chế tín chỉ và đóng góp cho dự thảo lộ trình chuyển đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ.

* Các giảng viên phải hiểu biết về các phương pháp dạy - học, kiểm tra - đánh giá tiên tiến như yêu cầu của hệ thống tín chỉ và có kỹ năng sử dụng các thiết bị giảng dạy hiện đại. Để có điều kiện này, ĐHQGHN phải giúp đỡ các đơn vị đào tạo tổ chức các đợt tập huấn cho đội ngũ giảng viên về các phương pháp dạy - học, kiểm tra - đánh giá tiên tiến. Các đơn vị đào tạo cũng cần thành lập bộ phận hoặc giao nhiệm vụ cho một bộ phận quản lý, hướng dẫn, cung cấp dịch vụ sử dụng các thiết bị dạy - học hiện đại cho giảng viên và sinh viên.

* Các chuyên viên của các phòng đào tạo được trang bị kiến thức về phương thức quản lý theo học chế tín chỉ, về kỹ thuật xây dựng thời khoá biểu môn học theo đăng ký của người học và hệ thống phần mềm công nghệ thông tin đáp ứng công việc ấy.

* Có đủ đội ngũ cố vấn am hiểu về chương trình đào tạo để hướng dẫn người họcchọn môn học và xây dựng kế hoạch học tập.

2.2. Có một ban chỉ đạo dự án chuyển đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ ở cấp ĐHQGHN

Ban chỉ đạo do một phó giám đốc ĐHQGHN phụ trách, có uỷ viên là các trưởng ban, chủ tịch Công đoàn ĐHQGHN, bí thư Đoàn Thanh niên CS Hồ Chí Minh ĐHQGHN, và một số thành viên khác do Giám đốc ĐHQGHN quyết định. Ban chỉ đạo dự án phải xây dựng dự án chuyển đổi đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ và trình dự án để Giám đốc ĐHQGHN xem xét, phê duyệt và sau đó chỉ đạo, kiểm tra việc triển khai đào tạo theo tín chỉ ở các trường đại học thành viên và các khoa trực thuộc. Trong dự án cần một lộ trình thực hiện, (nội dung công việc, đơn vị thực hiện, thời gian thực hiện và dự trù kinh phí cho từng công việc). Mỗi đơn vị đào tạo phải thành lập ban thực hiện dự án do hiệu trưởng hoặc phó hiệu trưởng phụ trách đào tạo (chủ nhiệm khoa hoặc phó chủ nhiệm khoa phụ trách đào tạo ở các khoa trực thuộc) làm trưởng ban. Căn cứ vào dự án của ĐHQGHN, ban thực hiện dự án ở đơn vị đào tạo xây dựng kế hoạch thực hiện chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ ở đơn vị mình, trình hiệu trưởng (hoặc chủ nhiệm khoa trực thuộc) phê duyệt và báo cáo ĐHQGHN.

2.3. Có chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ với các đặc điểm đã nêu ở mục 1.2

Xây dựng lại chương trình đào tạo cũng là dịp để chúng ta nghiên cứu và vận dụng các lý luận về thiết kế chương trình hiện đại theo chuẩn của các trường đại học tiên tiến, đáp ứng được yêu cầu hiện tại và tương lai của đất nước đối với ngành đào tạo và yêu cầu hội nhập quốc tế. Khi xây dựng khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ nên rà soát lại để bỏ bớt những môn không cần thiết, bổ sung các môn học mới cập nhật hơn, kế thừa những yếu tố tích cực, phù hợp của khung chương trình đào tạo hiện có. Trong điều kiện của ta hiện nay, 140 tín chỉ cho một chương trình đào tạo và sinh viên bắt buộc phải tích luỹ là con số phù hợp.

Ở đây còn có vấn đề liên quan tới các môn khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Cần xin phép Hội đồng Lý luận Trung ương cho chuyển thời lượng các môn học này sang tín chỉ theo tỷ lệ như các môn học khác. Trong khi chưa có ý kiến chỉ đạo của cấp trên về vấn đề này, số lượng tín chỉ cho mỗi môn học khoa học lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên giữ nguyên bằng số đơn vị học trình của môn học đó.

2.4. Có chương trình chi tiết từng môn học trong chương trình đào tạo theo tín chỉ của mỗi ngành đào tạo;

2.5. Có đủ giáo trình, bài giảng, tài liệu tham khảo cho mỗi môn học;

2.6. Có các văn bản pháp quy liên quan tới việc tổ chức đào tạo theo tín chỉ:

- quy định (hoặc hướng dẫn) đào tạo theo học chế tín chỉ, trong đó có nội dung quy định trách nhiệm của giảng viên và sinh viên trong học chế tín chỉ; một trong các trách nhiệm của giảng viên là phải có đề cương môn học (syllabus) phát cho sinh viên trước hoặc trong buổi học đầu tiên;

- văn bản hướng dẫn chế độ, chính sách đối với cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên trong học chế tín chỉ;

2.7. Có đủ điều kiện vật chất tối thiểu đạt yêu cầu đào tạo theo tín chỉ:

- đủ thiết bị giảng dạy hiện đại giúp giảng viên đỡ mất thời gian viết bảng hoặc trình bày, giảng giải trên lớp;

- đủ phòng học, hội trường, phòng thí nghiệm, phòng đọc ở thư viện để bố trí lớp học theo yêu cầu đăng ký của sinh viên và tạo điều kiện cho sinh viên tự học ngoài giờ lên lớp;

- có hệ thống phần mềm, cơ sở dữ liệu quản lý đào tạo và sinh viên theo hệ thống tín chỉ;

- và các điều kiện khác.

2.8. Tổ chức Đảng, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh nhà trường đã xác định được phương thức quản lý và hoạt động phù hợp trong điều kiện tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ (kết hợp quản lý người học theo khoá và theo môn học).

3. Các bước triển khai đào tạo theo tín chỉ ở ĐHQGHN

Việc triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ được triển khai theo hai giai đoạn.

3.1. Giai đoạn I: Áp dụng ngay những yếu tố tích cực của phương thức tín chỉ phù hợp với điều kiện hiện nay

3.1.1. Xây dựng lộ trình chuẩn bị đào tạo theo học chế tín chỉ (xin xem phụ lục 2) (trước tháng 6/ 2006)

3.1.2. Chuyển đổi khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ

a) Biên soạn tài liệu hướng dẫn chuyển đổi khung chương trình theo học chế tín chỉ;

b) Tập huấn, hướng dẫn phương pháp chuyển đổi khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ cho các cán bộ liên quan;

c) Các đơn vị đào tạo lập kế hoạch chuyển đổi khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ, báo cáo ĐHQGHN trước 9/2006 và tổ chức chuyển đổi khung chương trình theo học chế tín chỉ, bắt đầu từ các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao, chương trình tiên tiến, chương trình đào tạo quốc tế (kết thúc trước 28/2/2007), tiếp đến là các chương trình chuẩn;

d) ĐHQGHN tổ chức thẩm định khung chương trình theo học chế tín chỉ, ban hành sử dụng đối với các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao, chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình đào tạo quốc tế trước 30/6/2007; tiếp đến là các chương trình đào tạo chuẩn;

e) Áp dụng 3 nội dung đầu trong phần nói về đặc điểm của chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ (mục 1.2) đối với các chương trình đào tạo tài năng, chất lượng cao, chương trình đào tạo tiên tiến, chương trình đào tạo quốc tế từ năm học 2007 - 2008; các chương trình chuẩn áp dụng từ năm học 2008 - 2009; tiếp đến là các chương trình đào tạo chuẩn

f) Rút kinh nghiệm việc thực hiện khung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ để hoàn thiện khung chương trình và quy trình đào tạo.

3.1.3. Áp dụng sâu rộng phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá tiên tiến

a) Ban hành và thực hiện hướng dẫn phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá tiên tiến. Nội dung chính của hướng dẫn này bao gồm:

+ Yêu cầu về nội dung của đề cương môn học (syllabus);

+ Tỷ lệ số tiết giảng lý thuyết, xê-mi-na trên lớp do giảng viên phụ trách so với tổng số tiết học của từng môn học;

+ Quy định nhiệm vụ của giảng viên, gồm các nội dung cốt lõi sau đây: Ngoài việc giảng bài trên lớp và nghiên cứu khoa học, công việc của giảng viên còn bao gồm: 1) xây dựng và nộp cho khoa (đối với trường đại học thành viên) hoặc bộ môn (đối với khoa trực thuộc) bản đề cương môn học (syllabus) theo yêu cầu; 2) tìm tài liệu liên quan đến môn học, nghiên cứu và chọn những phần, chương, đoạn, trang giao cho sinh viên tự nghiên cứu, 3) suy nghĩ, chọn lọc những nội dung cần trình bày trên lớp, 4) suy nghĩ và xây dựng phương pháp trình bày những nội dung đã chọn lọc trên lớp và chuẩn bị các công cụ dạy học hiện đại để truyền đạt các nội dung ấy (powerpoints, overhead, slides), 5) suy nghĩ về các nội dung đề tài hướng dẫn sinh viên thảo luận, nghiên cứu các bài tập cho sinh viên làm, các thí nghiệm mà sinh viên cần thực hiện, 6) liên hệ với các cơ sở sản xuất, các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội ... cho sinh viên đến thực tập, 7) chấm bài và chuẩn bị các ý kiến đánh giá kết quả hoạt động học tập ở nhà, trên lớp, trong phòng thí nghiệm, đi thực tế của sinh viên; phân tích ưu, nhược điểm trong các bài kiểm tra, bài tập nghiên cứu, bài thi của sinh viên;

+ Cách thức kiểm tra, đánh giá liên tục kết quả học tập của sinh viên đối với môn học dựa trên cơ sở đánh giá mức độ chuyên cần đến lớp, ý thức học tập trên lớp, việc tham gia thảo luận và chất lượng ý kiến phát biểu, chất lượng bài kiểm tra đột xuất và bài kiểm tra giữa kỳ, thời gian nộp và chất lượng bài tập nghiên cứu, kết quả bài thi hết môn;

+ Yêu cầu cụ thể sinh viên tăng cường tự học, tự nghiên cứu theo hướng dẫn của giảng viên thông qua các công việc mà giảng viên giao như đã nói ở trên;

+ Việc kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả hoạt động giảng dạy của giảng viên; và các vấn đề khác liên quan;

+ Chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với việc áp dụng phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá tiên tiến ;

+ Chuẩn bị các điều kiện hỗ trợ dạy - học, kiểm tra đánh giá theo phương pháp tiên tiến ;

+ Đẩy mạnh áp dụng sâu rộng phương pháp dạy học, kiểm tra dánh giá tiên tiến;

+ Định kỳ kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm việc áp dụng các phương pháp tiên tiến nói trên.

3.1.4. Phát triển và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu từng bước chuyển đổi sang học chế tín chỉ.

3.1.5. Chuẩn bị cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đào tạo theo học chế tín chỉ.

3.2. Giai đoạn II: Áp dụng hoàn toàn, triệt để đào tạo theo học chế tín chỉ ở ĐHQGHN

Khi đội ngũ giảng viên đã quen với phương pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá trong học chế tín chỉ và khi tất cả các đơn vị đào tạo trong ĐHQGHN đã hoàn tất các công việc chuẩn bị (khi các trường đại học chuyển lên Hoà Lạc) thì có thể áp dụng hoàn toàn, triệt để đào tạo theo học chế tín chỉ, bắt đầu đối với sinh viên năm thứ nhất. Sinh viên các khoá đào tạo theo niên chế trước đó (từ năm thứ 2 trở lên) tiếp tục đào tạo theo niên chế cho đến hết khoá.

4. Kết luận

1) Học chế tín chỉ là một học chế mềm dẻo, tăng cường tính chủ động, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên; nhà trường, giảng viên tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sinh viên tích luỹ kiến thức, kỹ năng; đồng thời học chế tín chỉ cũng quản lý chặt chẽ quá trình học tập của từng sinh viên để đảm bảo chất lượng đào tạo;

2) Các điều kiện cần thiết để chuyển từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo học chế tín chỉ là sự thống nhất cao trong đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên, nhân viên nhận thức về học chế tín chỉ, về những công việc cần chuẩn bị (bao gồm chương trình, giáo trình, quy chế, chế độ chính sách, đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất), lộ trình thực hiện các công việc ấy và sau đó triển khai công tác chuẩn bị chu đáo, toàn diện các lĩnh vực nêu trên;

3) Đào tạo theo học chế tín chỉ là công việc hết sức khó khăn, cần sự chỉ đạo sát sao, quyết liệt của hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, sự cố gắng của đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, nhân viên trong tất cả các đơn vị đào tạo;

4) Toàn bộ công việc xây dựng dự án chuyển đổi từ học chế niên chế sang học chế tín chỉ và thực hiện dự án nếu tiến hành khẩn trương, tích cực nhất cũng phải mất ít nhất 2 - 3 năm. Khi việc chuẩn bị hoàn tất, tức là các điều kiện đã sẵn sàng, việc tổ chức đào tạo theo tín chỉ sẽ thực sự mang lại kết quả mong muốn;

5) Cần sớm áp dụng những yếu tố tích cực của học chế tín chỉ khi những yếu tố ấy có thể thực hiện ngay trong khi đang thực hiện học chế niên chế: chuyển đổi chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ, tổ chức dạy - học nhằm phát triển tính chủ động, tích cực, tự học, tự nghiên cứu của sinh viên và việc kiểm tra - đánh giá kết quả học tập liên tục, bằng nhiều hình thức khác nhau, trong suốt quá trình giảng dạy và học tập.

----------------------------------------------------------------------------

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Đại học; Về hệ thống tín chỉ học tập, Tài liệu sử dụng nội bộ; Hà Nội, 1994

2. Lê Thạc Cán; Khái niệm học phần trong tổ chức quá trình đào tạo đại học; Viện nghiên cứu giáo dục đại học và chuyên nghiệp; Hà nội, 1990

3. Lê Thạc Cán; Tổ chức giảng dạy và học tập theo chương trình định sẵn và theo học chế tín chỉ; Bài viết cho Toạ đàm về đào tạo theo tín chỉ ở ĐHQGHN (4/2006)

4. Lâm Quang Thiệp; Về việc áp dụng học chế tín chỉ trên thế giới và ở Việt Nam; Bài viết cho Toạ đàm về đào tạo theo tín chỉ ở ĐHQGHN (4/2006)

5. Lê Viết Khuyến; Cải tiến việc quản lý đào tạo đại học theo học chế học phần; Trong cuốn “Giáo dục học đại học”; Vụ đại học- Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1990

6. Ngô Doãn Đãi; Viện đại học và tổ chức đào tạo theo học chế tín chỉ; Báo cáo tại Hội thảo về đào tạo theo hệ thống tín chỉ; ĐHQGHN, 25/3/1997

7. Ngô Doãn Đãi; Cơ cấu lại chương trình đào tạo để chuyển từ hệ đào tạo theo niên chế sang chương trình đào tạo theo tín chỉ ở các trường đạo học hiện nay; Báo cáo tại Hội thảo “Chính sách nghiên cứu và đào tạo trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam” do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN và Quỹ Rosa Lucxemburg phối hợp tổ chức; Hà Nội, 8-9/12/2005

8. Ngô Doãn Đãi; Về việc triển khai đào tạo theo học chế tín chỉ; Bản tin ĐHQGHN, số 180, tháng 2/2006

9. Howard B. Altman and William E. Cashin; Writing a syllabus (Internet)

10. University of Missouri- Columbia; Undergraduate Catalog 2004-06

11. The University of Tokyo; Catalogue for 2000-2001

12. National Taiwan University, Bulletin 2004

13. Yokohama National University; Catalogue 1992-1993

 GS.TS Mai TRọng Nhuận - Phó Giám đốc ĐHQGHN - Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan