Tin tức & Sự kiện
Trang chủ   >   >    >  
GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP VÀ GIÁO DỤC LỐI SỐNG CHO HỌC SINH PHỔ THÔNG

I. Đặt vấn đề

Có thể nói giáo dục là một trong những quá trình chủ yếu hình thành và phát triển những đặc trưng nội tại của cá nhân trong mối quan hệ tương tác, hài hoà với môi trường kinh tế - xã hội. Xã hội càng phát triển về kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ thì càng có điều kiện để tổ chức nền giáo dục tiến bộ, toàn diện và đặt những yêu cầu mới thúc đẩy sự phát triển của bản thân giáo dục.

Ngày nay, hầu như đứng trên trường phái nào, người ta cũng đều nhất trí cho rằng một chính sách phát triển kinh tế xã hội hiện đại là chính sách phát triển "bằng con người và vì con người". Giáo dục là một trong những công cụ chủ yếu để thực hiện chính sách này và do vậy, một trong những mục tiêu quan trọng của giáo dục trong đó có giáo dục phổ thông là một bộ phận của giáo dục quốc dân có vai trò hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ; trang bị những tri thức và những ký năng phổ thông cơ bản về khoa học, văn hoá, nghệ thuật, hướng nghiệp, có sức khoẻ để tiếp tục học lên các bậc học cao hơn, học nghề, đi vào cuộc sống lao động sản xuất.

Những người có học vấn cao thường nhận việc làm ở khu việc hiện đại với mức thu nhập cao. Trong khi đó, những người có trình độ học vấn vừa phải làm việc ở khu vực truyền thống với mức thu nhập thấp và không tương xứng với trình độ học vấn mà họ đã học được.

Sự phân cực và bất bình đẳng về thu nhập phản ánh việc sử dụng sai nguồn nhân lực học vấn.

Mặt khác, nguồn lao động được đào tạo vượt quá khả năng thu hút của việc làm trong nền kinh tế phát triển. Những người có học vấn cao thường làm những công việc không cần tới mức học vấn đó, và do đó những người có mức học vấn phù hợp với việc làm thì lại bị thất nghiệp khiến cho họ phải tiếp tục học ở bậc cao hơn để có cơ hội tìm việc làm, những khả năng và điều kiện của họ lại khó đáp ứng.

Nền kinh tế tri thức đang hình thành trên thế giới, đang mở ra cơ hội mới cho ta đi tắt đón đầu. Chúng ta không thể chần chừ, bỏ lỡ cơ hội mà phải từng bước phát triển kinh tế tri thức để rút ngắn khoảng cách với các nước.

Sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, sự chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức có ý nghĩa sâu sắc và trọng đại hơn. Đó là sự chuyển đổi từ một nền sản xuất dựa vào tài nguyên, lao động là chính sang nền sản xuất dựa vào trí tuệ con người là chính; cũng tức là lực lượng sản xuất tinh thần là chủ yếu. Tri thức là nguồn tài nguyên hàng đầu tạo ra sự tăng trưởng quan trọng hơn cả vốn, lao động, tài nguyên, đất đai. Hàm lượng tri thức chiếm tý trọng cao trong kết cấu giá trị sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Trong khi giá trị các yếu tố vật chất, máy móc, vật tư nguyên vật liệu… trong kết cấu giá trị sản phẩm ngày càng giảm thì giá trị "chất xám" trong đó ngày càng tăng. Khác với các nguồn lực khác bị mất khi sử dụng, tri thức và thông tin có thể được chia sẻ và trên thực tế lại tăng lên khi sử dụng. Do vậy đầu tư phát triển tri thức là đầu tư đúng nhất, đúng chiến lược, đầu tư mới mua ý tưởng mới và khả năng tạo ra chúng chứ không phải mua máy móc thiết bị mới. Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất. Nét đặc trưng trong quan điểm nền kinh tế tri thức là đặt yếu tố con người vào địa vị trọng tâm của chiến lược phát triển, giáo dục được ưu tiên hàng đầu. Những người tài năng trong thời đại kinh tế tri thức là người được giáo dục và đào tạo một cách chính quy, chuẩn mực và chu đáo.

Một người có năng lực, được đào tạo cơ bản đến trình độ cao, nhưng nếu không được rèn luyện trong cuộc sống thì sẽ không bộc lộ được tài năng và vì thế mà không thể được mọi người thừa nhận.

Đối với nước ta, hệ thống giá trị của nhân cách con người Việt Nam là hệ thống giá trị nhân văn, đạo đức mang tính truyền thống như lòng tự hào dân tộc, tự hào truyền thống yêu nước, bất khuất, tự lập, tự cường, lao động cần cù, thông minh hiếu học, trọng thầy, hiếu thảo, thuỷ chung, ý thức cộng đồng, nhân ái, vị tha, rộng lượng, dễ thích nghi, thích hài hoà không ưu cực đoan… Cùng với những giá trị truyền thống là những giá trị nhân văn mang tính hiện đại như yêu hoà bình tự do, việc làm, gia đình, sức khoẻ, an ninh, công bằng, công lý, sống có mục đích và niềm tin, ý chí vươn lên, lập nghiệp, học vấn, trí tuệ, nhạy cảm với cái mới, sẵn sàng tiếp thu cái mới, nghề nghiệp ổn định.

Nhưng thực chất một số nhà nghiên cứu đã nêu ra hạn chế của con người Việt Nam ngày nay khi chuyển sang cơ chế thị trường chưa có thói quen tính toán và hạch toán kinh tế, nặng tâm lý bình quân chủ nghĩa, thiếu nhìn xa, nặng tâm lý người sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, thiếu tư duy và tác phong công nghiệp, thích hưởng thụ vật chất, sùng bái đồng tiền, sùng bái lối sống tiêu dùng xa xỉ, lãng phí, dễ mắc các tệ nạn xã hội…

Giáo dục và đào tạo là một trong quá trình chủ yếu hình thành và phát triển những đặc trưng nội tại của cá nhân trong mối quan hệ tương tác hài hoà với môi trường kinh tế xã hội. Hình thành và phát triển chất lượng nguồn nhân lực từ đó tạo nên sự phát triển chung của nền kinh tế xã hội.

Trong giai đoạn hiện nay, nói đến chiến lược giáo dục - đào tạo là nói đến chiến lược toàn diện con người, con người được phát triển toàn diện phải là con người gắn bó hài hoà với người khác với tinh thần tương thân tương ái hữu nghị, hợp tác, quan hệ với công việc và sự nghiệp một cách say mê và nhiệt tình, thích ứng và sáng tạo, hiệu quả và thành đạt. Người có nhân cách đẹp có thể xử lý đúng đắn quan hệ giữa con người với con người, phát triển tình bạn, tình người. Tình bạn tốt đẹp sẽ khiến con người cởi mở hơn, sống nhiệt tình và chân thành hơn. Người có nhân cách đẹp thì trong giao tiếp hằng ngày vừa khong bị lôi cuốn, vừa không tự cho mình là hơn người. Họ có thể tạo được sự hài hoà thống nhất giữa hành vi của mình với bạn bè, đồng nghiệp và mọi người. Trong những đặc điểm tâm lý của người thiếu tình bạn thì đố kỵ là một hiện tượng tâm lý rất xấu và hết sức phức tạp trong con người. Vì vậy để tư tưởng đố kỵ được hạn chế, không có điều kiện phát triển thì các nhà giáo dục, các nhà lãnh đạo quản lý, các nhà tâm lý học… từ nhà trường đến các đoàn thể và toàn xã hội rất cần quan tâm đến giáo dục đạo đức, nhân cách ngay từ tuổi ấu thơ, tuổi học sinh cho đến lúc trưởng thành và cả sau này để trong mỗi con người giảm bớt tư tưởng đố kỵ; bởi chính tư tưởng đó không những hại cho người khác mà trước hết nó hịa chính bản thân. Con người một khi có lòng tham thì hành vi sẽ vượt qua giới hạn của bản thân, thường dễ bị thất bại và gây tổn hại cho chính mình, cho người khác, thậm chí cho cả xã hội. Do vậy cái khó là biết đủ có chừng mực, có như vậy vừa tránh được lòng tham, tạo cho con người thoải mái, tình cảm trong sáng và không phát sinh những thói quen xấu, nhất là lòng đố kỵ.

Xã hội sẽ ngày càng tốt đẹp hơn khi mỗi người không ngừng hoàn thiện mình để có nhân cách tốt đẹp. Người có nhân cách tốt đẹp là người có lý tưởng độc lập và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, có tư duy sáng tạo và óc thực nghiệm, có kỹ năng thực hành giỏi, có tính tổ chức kỷ luật, nhiệt tình sáng tạo, trong học tập và công tác, thường xuyên có những phát hiện và phát minh đổi mới.

Để có được những tài năng phát triển toàn diện cả về đức, trí, thể, mỹ, có phong cách và lẽ sống văn hoá lịch sự trong xã hội có nền kinh tế tri thức phát triển là một quá trình phải đầu tư cả về sức lực và kinh tế gia đình, nhà trường và xã hội phải phối kết hợp để có được những biện pháp và phương pháp tốt nhất để giáo dục và đào tạo.

II. Biện pháp để giáo dục và đào tạo học sinh có định hướng nghề nghiệp và lối sống văn hoá trong nền kinh tế tri thức

Để chuẩn bị cho học sinh tốt nghiệp THCS và THPT đi vào trường chuyên nghiệp, dạy nghề, cao đẳng, đại học nhằm đào tạo công nhân kỹ thuật, cán bộ KHKT, cán bộ quản lý và nghiệp vụ đáp ứng những đòi hỏi của sự phát triển xã hội.

Chuẩn bị cho học sinh tốt nghiệp THCS và PTTH đi vào thị trường lao động không qua đào tạo nghề.

Để thực hiện những điều kiện trên phải có phương thức kết hợp với việc cung cấp kiến thức cho học sinh về tự nhiên và xã hội, tư duy rèn luyện các kỹ năng thực hành, chuẩn bị tốt các cơ sở ban đầu cho việc tiếp thu KHKT, nghề nghiệp và bước vào cuộc sống lao động:

+ Cha mẹ và nhà trường phải giúp học sinh mở rộng khả năng lựa chọn nghề nghiệp cho bản thân.

+ Cha mẹ kết hợp với nhà trường gần gũi, hiểu được học sinh, đánh giá, nhìn nhận khả năng của học sinh để định hướng giúp cho học sinh ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường có thể có sự lựa chọn nghề nghiệp sau này cho bản thân.

+ Cha mẹ cùng nhà trường kết hợp có thể tổ chức tách những lớp có định hướng chọn nghề nghiệp sau này giống nhau đưa các em cùng học một lớp.

Ví dụ: Các em có cùng sở thích và định hướng thiên về làm nghề Giám đốc, đưa các em vào lớp học riêng để có phương pháp và chương trình dạy hỗ trợ, bồi dưỡng cho các em ở lớp này giúp các em sau này sẽ trở thành những người quản lý giỏi…

+ Cha mẹ, nhà trường tạo một môi trường cho học sinh thực sự chủ động phát huy được hết khả năng sáng tạo của cá nhân học sinh. Các em chủ động khám phá và thấy hết được khả năng và năng lực của mình thích hợp và làm nghề gì sau khi rời mái trường phổ thông và sẽ vào học trường cao đẳng hoặc đại học nào mà hợp với nguyện vọng và ý tưởng của các em mong muốn.

+ Cha mẹ tuyệt đối không nên bắt ép và áp đặt các em phải lựa chọn và định hướng nghề nghiệp mà trước hết các em không thích và bản thân các em không có năng khiếu về nghề nghiệp đó.

Gia đình là một tế bào của xã hội hay nói cách khác gia đình là một xã hội thu nhỏ. Con người sinh ra và lớn lên đến khi trưởng thành. Đơn vị nhỏ chứa đựng đầy đủ các mối quan hệ của một xã hội lớn. Cuộc sống của cha mẹ có tác động trực tiếp đến tình trạng thể chất và tâm trí của con cái. Lối sống của cha mẹ là nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đến nhân cách của con cái ngay từ tuổi ấu thơ và mãi về sau, cũng như ảnh hưởng đến sự xuất hiện và phát triển các tài năng.

- Để cho con mình có thể phát triển toàn diện, cha mẹ không chỉ chăm lo lao động mà cha mẹ còn phải biết cách tổ chức các hoạt động trong gia đình để con cái vừa có điều kiện vật chất vừa có đủ các điều kiện tinh thần để phát triển nhân cách và tài năng một cách thuận lợi.

- Hiện nay thực tế trong xã hội có nhiều gia đình ít con (1 con) có điều kiện thường hay quá nuông chiều con, cho con hưởng quá đầy đủ về vật chất, nhưng ít quan tâm giáo dục và rèn luyện nhân cách cho trẻ, tạo cho trẻ được sống thụ động trong một môi trường quá tốt và đầy đủ, trẻ không thấy một sự khó khăn nào để phải khắc phục, phải suy nghĩ tìm cách vượt qua mà chỉ thấy thuận lợi cần gì là có, đòi gì là được tất cả là tự nhiên được và tự nhiên có chỉ biết hưởng thụ.

- Chúng ta không chỉ chú ý nuôi, dạy trẻ ở tuổi đi học mà nên chú ý ngay từ tuổi ấu thơ. Ở thời kỳ sơ sinh các mầm mống năng khiếu của trẻ phụ thuộc vào sự phát triển của một số giác quan thị giác, thính giác, xúc giác… Vì thế rất cần luyện các giác quan cho trẻ, người mẹ là người gần gũi và là người cảm thấy rõ nhất những xúc cảm và tình cảm của đứa trẻ trong giai đoạn này. Vì thế người mẹ phải biết tập cho con và nói với con những điều gì để là người mở đường đầu tiên để trẻ tiếp cận với việc phát triển trí dục và đức dục sau này. Người mẹ nói những lời hay, ru con bằng những câu ca dao tình cảm, nhẹ nhàng, tha thiết, đọc cho con nghe những câu chuyện mang tính chất giáo dục người tốt việc tốt, luôn vui vẻ, tươi cười… chắc chắn đứa trẻ khi lớn lên cũng sẽ ứng xử nhẹ nhàng, tình cảm, và sẽ luôn luôn là người con hiếu thảo biết nghe lời và làm những việc tốt…

Nếu đứa trẻ sinh ra và lớn lên gần gũi với người mẹ, người cha suốt ngày cáu gắt nói câu nói khó nghe, tình cảm khô cứng và thường hay nói chuyện những điều xấu, những câu chuyện thể hiện không lành mạnh của xã hội làm cho đứa trẻ bị ức chế, làm ảnh hưởng trí não và tinh thần của trẻ, làm cho trẻ không phát triển bình thường, thường sinh cáu gắt và tính tình thất thường… Như vậy sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển trí tuệ làm cho trẻ dễ bị thui chột tài năng.

- Trong thực tế hiện nay, cha mẹ thường xuất phát từ ý định chủ quan để gò ép và cưỡng bức con cái phải thuận theo, bất chấp nguyện vọng, sở trường, năng lực của con mình, điều con có khả năng và có nguyện vọng mong muốn thì bố mẹ không tin tưởng, không cho phép làm cho con mất cảm hứng và chán chường, bi quan dễ dẫn đến bi kịch khôn lường, bỏ nhà đi chơi, dễ bị bạn bè lôi kéo vào con đường hư hỏng; dễ bị lôi cuốn theo một lối sống khác mới lạ và thoải mái tự do hơn ở gia đình của mình…

- Là cha mẹ phải thường xuyên quan sát và chăm sóc chu đáo với trẻ để có thể hiểu rõ tâm sinh lý và những năng khiếu, khả năng của trẻ, từ đó có những định hướng đặt ra những yêu cầu phù hợp với trẻ, giúp trẻ phát triển một cách hài hoà toàn diện.

Trong xã hội hiện đại, định hướng giá trị đúng cho con cái phấn đấu phù hợp với những định hướng giá trị xã hội là việc làm rất cần thiết của mỗi gia đình. Khi các bậc cha mẹ nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý của con cái thì định hướng giá trị của gia đình sẽ sát với và hợp với nguyện vọng, sở trường của con cái và đó là nguồn động viên, khuyến khích hết sức mạnh mẽ để con cái vươn lên bằng mọi khả năng, phát huy hết tiềm năng để thực hiện hoài bão và lý tưởng của mình.

Trong xã hội hiện nay, tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của thế hệ trẻ có sự thay đổi về quan niệm bỏ lối sống truyền thống và ưa thích lối sống hiện đại thích tự do, thích chơi, không thích lao động nhưng lại muốn hưởng thụ nhiều hơn.

Trong xã hội hiện nay, khoa học công nghệ phát triển mạnh thế hệ trẻ lại là người được tiếp xúc và xử lý công nghệ rất giỏi, hàng ngày, hàng giờ có biết bao nhiêu kiến thức mà thế hệ trẻ nắm bắt được. Trong thông tin mang kiến thức tốt, xấu đều được thế hệ trẻ khai thác, cha mẹ là người quản lý và ngăn cản được các em.

Nếu được bố mẹ, ông bà, anh chị phân tích giải thích và nhắc nhở quản lý theo định hướng tốt sẽ giúp các em khai thác và nắm bắt thông tin tốt.

Ngược lại, nếu bố mẹ, anh chị… không thường xuyên sâu sát, nhắc nhở hoặc ngăn cấm các em thì chưa phải đã là biện pháp tốt, vì hằng ngày các con không thể không ngồi làm việc và học tập trên máy tính.

- Bố mẹ và mọi người trong gia đình luôn luôn động viên khích lệ các em luôn tham gia hoạt động bổ ích, giúp đỡ bố mẹ làm những việc gì mà khả năng các em có thể làm được.

- Giáo dục các em có ý thức tự giác tham gia lao động giúp đỡ mọi người và biết thương yêu mọi người trong gia đình.

- Kính trọng ông bà, cha mẹ, thương yêu các em nhỏ. Bố mẹ và mọi người trong gia đình ngược lại cũng phải tôn trọng các em, luôn luôn lắng nghe ý kiến và tâm tư tình cảm của các em.

- Chú trọng giáo dục nhân cách, phương pháp đối nhân, xử thế, hay nói một cách khác là phải giáo dục toàn diện, giáo dục văn hoá ứng xử đối với mọi người.

- Nhà trường gắn liền với các cá nhân và không hạn chế về không gian và thời gian nghĩa là bằng nhiều hình thức kết hợp, liên lạc qua mạng Internet, qua điện thoại gián tiếp và trực tiếp… bất kể thời gian nào nhà trường và học sinh, gia đình học sinh và thầy giáo, cô giáo có thể liên tục trao đổi về mội vấn đề liên quan giúp cho các em học sinh có thể trao đổi học tập, rèn luyện… ở mọi nơi mọi lúc.

- Nhà trường nên tổ chức các lớp học, khối học mang tính chất phân hoá cao, ví dụ: Những lớp phân hoá theo nghề nghiệp sau này mà các em mong muốn; lớp học chuyên toán về sau các em đi vào khoa sư phạm toán, hoặc chuyên nghiên cứu về môn toán… lớp chuyên tin về sau các em đi vào học chuyên ngành tin và làm ngành liên quan tin học… để từ đó nhà trường có kế hoạch và chương trình học cụ thể hơn, sát hơn, sâu hơn, tốt hơn đáp ứng được nhu cầu của các em. Để từ đó giáo dục sẽ hiệu quả hơn và thực tế hơn.

- Nhà trường kết hợp quan hệ với các trường khác không chỉ ở trong nước mà còn trên thế giới bằng nhiều hình thức: Tham quan, trao đổi, học tập, giao lưu, phối hợp cùng bàn, cùng nghiên cứu, cùng đào tạo, trao đổi chương trình, thiết kế chương trình hợp tác đào tạo, gửi thầy cô, học sinh đi đào tạo... để thầy cô và học sinh nâng tầm nhận thức, bổ sung kiến thức và kinh nghiệm mà bản thân mỗi cá nhân cần học hỏi.

- Nhà trường phải có nội dung chương trình thay đổi (những phần mà Chính phủ cho phép).

Để phù hợp hơn với từng đối tượng học sinh và chất lượng hơn phù hợp với nhu cầu xã hội hoá.

Tích cực và tăng cường dạy nâng cao môn ngoại ngữ và tin học, dạy đi đôi với hành, chương trình dạy phải gắn liền với thực tiễn.

- Phương pháp dạy và học cũng phải có sự thay đổi.

+ Phương pháp linh hoạt, mềm dẻo đáp ứng nhu cầu người học, học sinh học ít nhưng hiểu nhiều.

+ Đưa trang thiết bị hiện đại vào trong tiết dạy để hiệu quả hơn (ít nhất trong tiết dạy, học sinh vừa hiểu biết được kiến thức của bài và hiểu biết thêm về kiến thức sử dụng trang thiết bị và hiểu biết thông tin và thu nhận thông tin rộng hơn và nhiều hơn...).

Để các em học sinh định hướng và xác định lựa chọn cho mình được một việc làm hoặc một nghề phù hợp với khả năng và phát huy được năng lực của bản thân, để làm việc có hiệu quả và năng suất trong xã hội mà nền kinh tế tri thức phát triển thì gia đình và nhà trường phải liên kết và kết hợp chặt chẽ trong quá trình giáo dục và đào tạo.

Mở rộng hợp tác và liên kết quốc tế trong lĩnh vực đào tạo, trong chương trình đào tạo phải gắn liền với thực tiễn, với sự phát triển của nền kinh tế tri thức trong xã hội khoa học và công nghệ phát triển ./.

ThS. Trương Hải Yến - Trường PTDL Phương Nam

 Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   |