Tin tức & Sự kiện
Trang chủ   >   >    >  
MỘT SỐ CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC
Ở mọi thời đại, đội ngũ trí thức luôn là “nền tảng tiến bộ xã hội”, là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Vì vậy, ông cha ta đã nhấn mạnh: hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy, thế nước yếu mà thấp kém.

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng luôn có quan điểm nhất quán coi trọng và tin tưởng vào đội ngũ trí thức, coi giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đảng và Nhà nước có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện để đội ngũ trí thức phát triển ngày càng lớn mạnh, phát huy tốt vai trò phục vụ tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc v.v… Nhờ đó nước ta có được một đội ngũ trí thức khá mạnh, trung thành với đất nước và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua, trong đó có phần cống hiến không nhỏ của đội ngũ nữ trí thức.

Phát triển lực lượng trí thức nói chung và đội ngũ nữ trí thức nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của đất nước trong thời kỳ mới. Đại hội X của Đảng đã khẳng định phải đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Nói kinh tế tri thức là nói đến việc sử dụng có hiệu quả nhất tri thức mới của thời đại để phát triển nhanh đất nước mình; điều đó đã nói lên vai trò ngày càng đặc biệt quan trọng của đội ngũ tri thức. Trong thời đại cách mạng tri thức và cách mạng thông tin hiện nay nếu không có một đội ngũ trí thức đông và mạnh đủ khả năng nắm bắt, vận dụng tri thức mới của thời đại đang bùng nổ và sáng tạo tri thức mới thì không thể hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức được.

1. LUẬT PHÁP Ở VIỆT NAM VÀ TRÊN THẾ GIỚI LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN TRÍ THỨC NÓI CHUNG VÀ NỮ TRÍ THỨC NÓI RIÊNG

1.1 Một số quy định trong luật pháp về chính sách liên quan đến nữ trí thức ở Việt nam

1.1.1 Hiến pháp

Hiến pháp là văn bản pháp lý cao nhất của nhà nước Việt Nam, Hiến pháp đã ghi nhận rất rõ việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa năm 1946 đã quy định “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang nhau về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hóa” (điều 6). Hiến pháp được bổ sung và sửa đổi năm 1959, năm 1980 và 1992 đều thể hiện quyền bình đẳng nam nữ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội. Theo quy định của Hiến pháp năm 1992, phụ nữ có quyền và ngang quyền với nam giới trong việc tham gia bầu cử, ứng cử vào Quốc hội và Hội đồng nhân dân, tham gia quản lý nhà nước và tham gia các hoạt động chính trị; công dân nam và nữ có quyền ngang nhau về kinh tế. Hiến pháp năm 1992 cũng quy định phụ nữ có các quyền cơ bản đối với văn hoá, giáo dục. Hiến pháp 1992 cũng ghi nhận các quyền tự do cá nhân của phụ nữ như: tự do tín ngưỡng, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm; quyền bất khả xâm phạm về thư tín, điện thoại, điện tín v.v…

Tại điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) khẳng định “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức”.

Hiến pháp năm 1992 đã dành chương V quy định về quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong điều hành, quản lý nhà nước đã rất quan tâm đến vấn đề lao động, tiền lương và phúc lợi xã hội, cũng như chỉ đạo việc thực hiện Luật hôn nhân và gia đình, công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình, tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ tiến bộ và bình đẳng với nam giới.

1.1.2 Bộ luật Dân sự (2005)

Bộ Luật Dân sự (năm 2005) gồm 35 chương với 777 điều. Một trong những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật dân sự là bên cạnh những quy định chung về năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự, quyền nhân thân, nơi cư trú v.v... áp dụng với tất cả mọi công dân, Bộ Luật Dân sự (năm 2005) đã đưa ra các quy định về chế tài đối với phụ nữ khi năng lực hành vi bị hạn chế, về bảo vệ quyền của phụ nữ trong gia đình, quyền thừa kế, sở hữu trí tuệ của phụ nữ;

1.1.3 Bộ Luật Lao động

Bộ luật Lao động đã có nhiều quy định về lao động nữ, đặc biệt là có một chương riêng (chương X) về lao động nữ, xác định rõ mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động trong cơ chế thị trường, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động nữ, chống lại sự bóc lột, sự ép buộc họ phải chấp nhận những điều kiện lao động bất lợi, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm của phụ nữ. Bộ luật Lao động quy định không có sự phân biệt giữa nam và nữ về quyền được làm việc, người sử dụng lao động phải thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động v.v…

1.1.4 Luật Khoa học Công nghệ

Điều 35 của Luật này quy định rõ “Nhà nước trọng dụng nhân tài, tạo mọi điều kiện thuận lợi để họ sáng tạo và cống hiến, có chính sách và biện pháp để thu hút nhân tài vào việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và ưu tiên trọng điểm của nhà nước, có chế độ đãi ngộ tương xứng với cống hiến và có chế độ ưu tiên đặc biệt đối với cá nhân có công trình khoa học và công nghệ đặc biệt xuất sắc, có cống hiến lớn đối với đất nước. Nhà nước có chính sách thoả đáng về lương, về điều kiện làm việc, chỗ ở đối với cá nhân hoạt động công nghệ”.

1.1.5 Luật Bình đẳng giới

Luật Bình đẳng giới được thông qua ngày 29/11/2006 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2007. Luật ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong hành động tiến tới bình đẳng giới của Việt Nam. Luật gồm 6 chương 44 điều, quy định: nam, nữ bình đẳng trong việc tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, tự ứng cử và được giới thiệu ứng cử vào cơ quan lãnh đạo của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, bình đẳng về tiêu chuẩn chuyên môn, độ tuổi khi được đề bạt, bổ nhiệm vào cùng vị trí quản lý, lãnh đạo của cơ quan, tổ chức...

Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: nữ cán bộ, công chức, viên chức khi tham gia đào tạo, bồi dưỡng mang theo con dưới ba mươi sáu tháng tuổi được hỗ trợ theo quy định...

Các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động bao gồm: áp dụng các điều kiện khác nhau trong tuyển dụng lao động nam và lao động nữ đối với cùng một công việc mà nam, nữ đều có trình độ và khả năng thực hiện như nhau; Từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động, sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ; Phân công công việc mang tính phân biệt đối xử giữa nam và nữ dẫn đến chênh lệch về thu nhập hoặc áp dụng mức trả lương khác nhau cho những người lao động có cùng trình độ, năng lực vì lý do giới tính...

1.2 Chính sách và luật pháp của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia trên thế giới liên quan đến phụ nữ, đến trí thức và nữ nữ trí thức

1.2.1 Các công ước của Liên Hợp quốc và Tổ chức Lao động Quốc tế

Để bảo vệ các quyền của phụ nữ - trẻ em nói chung và của nữ trí thức nói riêng, Liên hợp quốc đã thông qua rất nhiều công ước liên quan đến vấn đề này.

Thứ nhất là Công ước về các quyền chính trị của phụ nữ (thông qua năm 1952). Công ước này qui định, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên mọi lĩnh vực, có quyền bầu cử, ứng cử, quyền được nhận vào làm việc và giữ các chức vụ trong các cơ quan nhà nước.

Thứ hai là Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối thiểu khi kết hôn và việc kết hôn tự nguyện (thông qua năm 1962). Công ước này khẳng định phụ nữ có quyền tự do lựa chọn người phối ngẫu, phụ nữ được bảo vệ chống lại các tệ nạn tảo hôn và cưỡng ép kết hôn…

Thứ ba là Công ước về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) (thông qua năm 1979, có hiệu lực năm 1981). Công ước quy định về quyền con người và những tự do cơ bản khác, theo đó, các quốc gia thành viên sẽ tiến hành các biện pháp gồm cả pháp luật trong những lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá để đảm bảo sự phát triển và tiến bộ của phụ nữ, để họ có thể được đảm bảo việc thực hiện và hưởng thụ những quyền cơ quản và những tự do khác trên cơ sở bình đẳng với nam giới. Điều 10(a) của công ước đặc biệt kêu gọi các quốc gia thành viên phải đảm bảo sự tham gia bình đẳng của nam giới và phụ nữ trong mọi lĩnh vực đào tạo ở các cấp.

Bên cạnh các công ước của Liên Hợp quốc, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã ban hành một số công ước nhằm bảo vệ sự bình đẳng trong trả công, bảo hộ việc làm và hỗ trợ các lao động đặc thù như Công ước về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp (1958), Công ước về bình đẳng trong trả công lao động (1951), Công ước về chính sách việc làm (1964), Công ước về bình đẳng cơ hội (về việc làm) và đối xử với lao động nam và nữ, những người lao động có gánh nặng gia đình (1973) v.v...

1.2.2 Luật pháp, chính sách của một số quốc gia trên thế giới

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của phụ nữ và các vấn đề liên quan đến nữ trí thức, nhiều quốc gia trên thế giới và các nước trong khu vực đã ban hành các quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng phù hợp với điều kiện mỗi nước.

1.2.2.1 Luật pháp của một số nước theo đạo Hồi

Luật pháp của một số nước theo đạo Hồi cũng đã có những khuyến khích nhất định đến phát triển của nữ trí thức. Chẳng hạn, Hiến pháp mới năm 2004 của Apganixtan quy định “nam nữ bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp luật”, theo Hiến pháp, nữ giới có 25 ghế trong hạ viện và 17 đại biểu ở thượng viện, phụ nữ có quyền học hành và làm việc.

Irắc, nữ giới được Hiến pháp đảm bảo dành cho họ 25% số ghế ở Quốc Hội, vì vậy, họ có lợi thế trong cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng.

Tại Marốc, từ giữa những năm 1990, Chính phủ nước này đã phát động chương trình thúc đẩy sự tham gia của nữ giới vào công cuộc phát triển xã hội bằng cách tăng cường chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em, giáo dục thiếu nữ, tạo cơ hội hoạt động kinh tế và chính trị cho nữ giới.Phụ nữ Marốc được khuyến khích đóng vai trò tích cực hơn trên chính trường, quyền con người của nữ giới được Quốc vương Mohammed VI nhiệt liệt ủng hộ.

Gioocdani cũng cố gắng nâng cao học vấn của nữ giới, khuyến khích họ tham gia nhiều hơn vào lực lượng lao động và chính trường. Chính quyền ở đây xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng nam nữ trong việc học.

Tại Qatar, Quốc vương Hamad phát động một số cuộc cải cách chính trị, bao gồm cuộc bầu cử đầu tiên năm 1999, trong đó cả nam giới lẫn nữ giới đều có quyền bỏ phiếu và ứng cử vào các chức vụ

1.2.2.2 Luật pháp của một số nước Châu Âu và Châu Mỹ

Luật bình đẳng giới của Na Uy gồm 21 điều khoản với mục đích nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội. Các điều khoản trong luật khẳng định sự bình đẳng giữa nam và nữ trong vị trí xã hội, việc làm, giáo dục, điều kiện học tập và mối quan hệ xã hội. Điều 3 của Luật khẳng định “Sự phân biệt đối xử một cách trực tiếp hay không trực tiếp đều không được cho phép”. Trong lĩnh vực lao động - việc làm, luật quy định khi quảng cáo tuyển dụng, sử dụng người lao động không được hạn chế tuyển một giới, cũng không được gây ấn tượng cho rằng, họ mong muốn hay thích tuyển một giới nào đó. Khi đề bạt, cách chức hoặc sa thải lao động đều không được phân biệt nam nữ. Lao động nam và nữ trong cùng một doanh nghiệp phải được trả lương như nhau cho cùng một công việc hoặc công việc có giá trị ngang nhau. Trong lĩnh vực giáo dục, Luật bình đẳng giới của Na uy đã quy định phụ nữ và nam giới có quyền bình đẳng trong đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ không phân biệt tuổi tác. Các điều khoản của Luật còn quy định chi tiết về đại diện của nữ giới trong cấp lãnh đạo, vị trí thăng tiến của phụ nữ, sự bồi thường thiệt hại và không được phép quấy rối về giới tính và tình dục.

Ngoài luật bình đẳng giới, hệ thống pháp luật ở Na-uy còn các ngành luật liên quan với các điều khoản và trách nhiệm của người sử dụng lao động đồng bộ, thống nhất cùng hướng tới mục tiêu bảo vệ quyền cho phụ nữ.

Tại Thuỵ Điển, đạo luật Cơ hội bình đẳng giới được Quốc Hội thông qua năm 1991 với mục đích nhằm tăng cường, khuyến khích quyền bình đẳng nam nữ trong các quyền và trong công việc. Luật này ra đời nhằm cố gắng đưa phụ nữ tiến tới bình đẳng hoàn toàn với nam giới, nhất là bình đẳng về lương. Thuỵ Điển còn ban hành Luật bảo hiểm cho cha mẹ (1974) quy định người có con được hưởng 80% lương, cả cha mẹ được nghỉ 13 tháng và được hưởng lương, luật này cũng quy định nếu ai có nguyện vọng làm việc đến 67 tuổi thì vẫn được làm, không ai có quyền đuổi họ. Ngoài ra, Quốc Hội Thuỵ Điển còn thông qua các khía cạnh về bình đẳng giới (2002 - 2006) với những vấn đề trọng tâm là quyền đại diện, quyền được tham gia phân bổ công bằng, bình đẳng giữa nam và nữ như: Phân bổ quyền lực bình đẳng giữa nam và nữ, các cơ hội và điều kiện bình đẳng cho nam và nữ liên quan đến vấn đề doanh nghiệp, việc làm, khả năng thăng tiến, khả năng tiếp cận bình đẳng đối với việc giáo dục – đào tạo, phát triển tài năng, mối quan tâm của bản thân.

Luật Quyền dân sự Mỹ năm 1964 là bộ luật nhằm chống lại sự phân biệt đối xử người khác do màu da, sắc tộc, nguồn gốc, tôn giáo và giới tính. Luật nghiêm cấm bất cứ một chương trình nào nhận kinh phí từ chính phủ liên bang phân biệt đối xử giới. Chính phủ có thể cắt tài chính tài trợ cho những chương trình có chính sách hỗ trợ Hội hành động vì Bình quyền cho phụ nữ được thành lập từ năm 1986 với mục đích giám sát các chương trình giáo dục nhằm phát hiện và loại bỏ những bất bình đẳng trong việc trả lương giáo viên và trong giảng dạy và sự quan tâm đến môi trường giáo dục mà ở đó không khuyến khích sự tham gia, phát biểu thảo luận của các sinh viên nữ.

1.2.2.3 Luật pháp của một số nước Châu Á

Tại Trung Quốc, kết quả đánh giá hằng năm và kết quả khảo sát cán bộ là căn cứ để cơ quan quản lý nhân sự thực hiện việc khen thưởng, đào tạo, tăng lương, điều chỉnh, thăng hoặc giáng chức đối với cán bộ, công chức. Việc sử dụng kết quả đánh giá cán bộ được các văn bản pháp quy hiện hành của Trung Quốc quy định: những người 3 năm liên tục được đánh giá là ưu tú hoặc 5 năm liền được xác định là tương xứng với chức vụ trở lên, trong cùng một ngạch bậc sẽ được nâng một cấp; những người trong nhiệm kỳ công tác có 2 năm liên tục được xác định là tương xứng với chức vụ, tiêu chuẩn tiền lương chức vụ sẽ được tăng một bậc lương v.v… Công tác quy hoạch cán bộ ở Trung Quốc được thực hiện dựa trên nguyên tắc xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị. Các nguyên tắc tiến cử, lựa chọn, đề bạt người kế tục các chức vụ lãnh đạo, quản lý cũng chính là nguyên tắc chỉ đạo trong công tác quy hoạch cán bộ, trong đó 2/5 nguyên tắc chủ đạo chính là “nguyên tắc dùng người hiền tài” , “nguyên tắc chú trọng bồi dưỡng đào tạo”

Tại Nhật Bản, 1/3 đặc điểm chính của chế độ quản lý nhân sự là các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp lớn đều có một nguyên tắc sử dụng nhân sự (cán bộ, công nhân viên chính thức) suốt đời. Về chế độ tiền lương của công chức nhà nước ở Nhật Bản, mặc dù tiền lương ở khu vực công thấp hơn so với khu vực tư nhân nhưng được làm việc trong các cơ quan công quyền vẫn luôn là mơ ước của hầu hết người Nhật, việc tăng lương ở khu vực chính phủ thường đi liền với việc tăng lương của khu vực tư nhân. Ngoài tiền lương, công chức còn có nhiều khoản bổng lộc khác, chẳng hạn, mặc dù tuổi về hưu cố định của các công chức và nhân viên hầu hết ở các công ty lớn là 60 nhưng chỉ có khoảng 1% các công chức nhà nước tiếp tục làm việc đến độ tuổi đó, các công chức chính phủ ở độ tuổi 50 trở lên thường được giới thiệu làm một công việc mới ở khu vực tư nhân hoặc các công ty thuộc chính phủ. Việc tuyển chọn cán bộ công chức của Nhật Bản dựa trên 3 cấp thi cử, đánh giá công khai và có tính cạnh tranh cao. Nguyên tắc chủ yếu chi phối các cuộc thi là bình đẳng, cạnh tranh, công khai và dựa trên năng lực với yêu cầu các ứng viên phải vừa tốt nghiệp các trường.

Xingapo là một trường hợp điển hình trong các nước ASEAN về tinh thần coi trọng nhân tài, có chính sách sử dụng và phát triển nhân tài hữu hiệu.Theo ông Lý Quang Diệu (Thủ tưởng Xingapo), “Chế độ Xingapo thực hành là chế độ trọng nhân tài”, “chỉ có những nhân tài đầy đủ tinh lực, cương nghị, giàu tài năng, sẵn sàng toàn tâm toàn ý lấy biểu hiện công tác để tiến thủ mới có thể được cất nhắc...”. Chế độ công chức của Xingapo được sửa đổi theo nguyên tắc nhận biết chính xác công chức có tài và công chức bình thường, có chính sách đãi ngộ, bổ nhiệm phân biệt rõ ràng giữa hai loại này. Mục tiêu của công tác đánh giá, quy hoạch và luân chuyển cán bộ của Xingapo là tìm ra nhân tài quản lý, giao cho họ những trọng trách, động viên và phát triển họ bằng sự đánh giá công bằng và chế độ đãi ngộ cao. Sự luân chuyển cán bộ của Xingapo đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia. Xingapo đã thành công trong việc thu hút nhiều nhân tài nước ngoài đến lập nghiệp, thành công trong việc giữ gìn, phát triển nguồn tài nguyên nhân tài của quốc gia, không để xảy ra tình trạng “chảy máu chất xám” ra nước ngoài.

2. MỘT SỐ CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN NỮ TRÍ THỨC

2.1 Một số chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đề bạt cán bộ nữ

Có thể nói, trong suốt những năm chiến tranh đến sau thời kỳ đổi mới, Đảng và Nhà nước đã đề ra rất nhiều chính sách đào tạo.

Năm 1967, để đào tạo, đề bạt cán bộ nữ và tăng cường khả năng tham gia quản lý Nhà nước, khả năng đóng góp của phụ nữ trong xây dựng và phát triển đất nước, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 152 ngày 10/1/1967 về “một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận” và Nghị quyết 153 về “công tác cán bộ nữ”. Nghị quyết 152-153/NQ-TƯ đã xác định vị trí, tầm quan trọng và nhiệm vụ của công tác cán bộ nữ. Công tác cán bộ nữ được coi là một nhiệm vụ trong toàn bộ sự nghiệp Cách mạng của Đảng, cần đấu tranh kiên quyết chống những quan điểm bảo thủ, hẹp hòi, những tư tưởng phong kiến và các tư tưởng không vô sản khác đối với việc sử dụng, đề bạt, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, kiên quyết mạnh dạn sử dụng và cất nhắc cán bộ nữ.

Chỉ thị 44 ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ” đã nêu 5 vấn đề quan trọng là: tạo sự chuyển biến mạnh mẽ nhận thức quan điểm về công tác cán bộ nữ; phương hướng tăng cường công tác cán bộ nữ; tích cực đào tạo, bồi dưỡng tạo điều kiện cho cán bộ nữ hoàn thành nhiệm vụ; đẩy mạnh công tác phát triển đảng trong phụ nữ; tăng cường chỉ đạo công tác cán bộ nữ.

“Những ngành đông nữ và những ngành mà chức năng có quan hệ nhiều đối với vấn đề phụ nữ cần có cán bộ nữ tham gia lãnh đạo các cấp từ trung ương đến cơ sở như: y tế, giáo dục, nội thương, nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm, tài chính ngân hàng, lao động thương binh xã hội, văn hoá, toà án…Các cục, vụ, viện, phòng, ban… có liên quan nhiều đến việc xây dựng và thực hiện chính sách như: lao động, tiền lương, tổ chức cán bộ… phải có cán bộ nữ trong bộ máy lãnh đạo”.

Nghị quyết 04/BCT ngày12/7/1993 “Về đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, Đảng cũng xác định 3/6 công tác lớn mà Nhà nước, các cấp, các ngành phải quan tâm chỉ đạo liên quan đến việc phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong đó có nữ trí thức là: Giải quyết việc làm, chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ sức khỏe và quyền lợi của phụ nữ; Giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất, năng lực, nâng cao trình độ mọi mặt cho phụ nữ; Công tác cán bộ nữ.

Tiếp đó, ngày 16/5/1994, Ban Bí thư TW Đảng ban hành Chỉ thị số 37/CT-TW “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới” nhằm nhấn mạnh việc tăng cường cán bộ nữ vào các cương vị lãnh đạo quản lý. Chỉ thị nêu rõ: “Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là một yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng dân chủ của người phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của người phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”. Ban Bí thư yêu cầu rõ trong Chỉ thị: Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm của Đảng về vấn đề cán bộ; Có quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ; Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các cấp, các ngành; Xây dựng chính sách tạo điều kiện cho cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ phát triển; Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong phụ nữ .

Thêm vào đó, ngày 3/5/1999, Quyết định 51-NQ/TW được ban hành với qui định tuổi bổ nhiệm: Cơ quan Trung ương nữ 50 - nam 55; Huyện, quận và tương đương: nam 45, nữ 40. Bộ ngành - vụ trưởng: nam 50 - nữ 45, vụ phó nam 45 - nữ 40.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 56 ngày 12/10/2000 nâng tuổi tuyển dụng cán bộ nữ lên bằng nam từ 18 đến 40 tuổi (trước đó nữ 18- 35 tuổi). Quyết định số 27 ngày 19/2/2003 về quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ công chức lần đầu vào các chức vụ chủ chốt quận, huyện tuổi nam nữ bằng nhau (không quá 45 tuổi).

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX năm 2001 đã kế thừa và hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của các Đại hội Đảng trước đó về đổi mới công tác vận động phụ nữ và tiếp tục cụ thể hoá cho phù hợp với tình hình mới: “Đối với phụ nữ, thực hiện tốt luật pháp và chính sách bình đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn, có cơ chế, chính sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lãnh đạo và quản lý ở các cấp, các ngành”.

Những năm gần đây, nghị quyết số 11-NQ/TW (ban hành ngày 27/4/2007) của Bộ chính trị “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” đã tiếp tục khẳng định quan điểm đúng đắn của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ, trong đó nhấn mạnh: Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới; Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Đảng.

Nghị quyết TW VII khoá X của Đảng đã khẳng định, “đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới...”.

2.2 Một số chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm đãi ngộ, tôn vinh trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng

Không chỉ quan tâm đến việc bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ nữ trong đó có nữ trí thức, Đảng và nhà nước, một số ban/ngành còn có những chính sách cụ thể nhằm đãi ngộ, tôn vinh trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng.

Năm 1971, Ban Bí thư Khoá III đã ra Chỉ thị về việc phân công trong công tác vận động, quản lý đội ngũ trí thức (số CT/TW ngày 7-7-1971) nhằm bồi dưỡng và sử dụng tốt đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ sức cống hiến của anh chị em cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm cho đội ngũ trí thức mãi mãi là một lực lượng xã hội trung thành với Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, với Đảng và Nhà nước ta”, đây cũng là chỉ thị nhằm góp phần bồi dưỡng đội ngũ nữ trí thức.

Ngoài ra, liên quan đến chính sách sử dụng, đề bạt nữ trí thức, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số văn bản liên quan đến công tác lãnh đạo quản lý nói chung và công tác nữ lãnh đạo quản lý nói riêng như: Hướng dẫn số 07-HĐ/TC Trung ương hướng dẫn công tác nhân sự HĐND và UBND các cấp nhiệm kỳ 1999-2004 “Về nhân sự đại biểu HĐND tỷ lệ đại biểu là nữ tăng khoảng 10% so với hiện nay và đạt ít nhất không dưới 20%, ở các thành phố tỉ lệ này không dưới 25%”; Quyết định số 27/2003/QĐ- TTg ngày 19/2/2003 về quy chế bổ nhiệm, bổ nhiệm lại đối với cán bộ công chức làm cơ sở cho các Bộ, ngành, UBND các tỉnh có quy hoạch đội ngũ lãnh đạo nữ cho phù hợp với điều kiện thực tế.

Năm 2005, Đề án của Thủ tướng Chính Phủ “Tăng cường trí thức trẻ tình nguyện đến công tác tại các khu kinh tế quốc phòng” có nhiều chính sách ưu đãi đối với thanh niên trí thức tình nguyện nói chung và nữ thanh niên trí thức nói riêng: Trong thời gian công tác, thanh niên tình nguyện được hưởng trợ cấp hàng tháng theo hệ số lương khởi điểm như đối với sinh viên tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng, trung học… Tùy theo từng địa bàn công tác, các đội viên còn được hưởng các khoản phụ cấp khác như phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt, phụ cấp lưu động, phụ cấp thu hút, bảo hiểm xã hội, tư trang ban đầu, hỗ trợ kinh phí hoạt động văn hóa… Thanh niên trí thức tình nguyện được hưởng bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo quy định của Nhà nước. Trường hợp có hành động dũng cảm bảo vệ an ninh quốc gia, tài sản của nhà nước, tính mạng và tài sản của nhân dân nếu bị thương thì được xem xét, xác nhận hưởng chính sách như thương binh, nếu hy sinh thì được xem xét, xác nhận là liệt sỹ. Nếu thanh niên tình nguyện đã hoàn thành nhiệm vụ thi tuyển vào công chức nhà nước được cộng điểm ưu tiên; nếu thi tuyển vào các hệ cao đẳng, đại học được hưởng theo đối tượng thuộc nhóm ưu tiên 2, nếu thi tuyển vào hệ sau đại học thì được ưu tiên cộng hai điểm (theo thang điểm 10). Trường hợp được tuyển dụng vào công chức nhà nước thì sau thời gian tập sự, bổ nhiệm và ngạch được nâng lương lần đầu sớm hơn quy định hiện hành một năm. Những đội viên có thành tích xuất sắc, có nguyện vọng công tác lâu dài tại đoàn kinh tế quốc phòng được ưu tiên xem xét, tuyển dụng phù hợp với biên chế theo quy định của Bộ Quốc phòng. Nếu họ có nguyện vọng ở lại lâu dài tại nơi đã tình nguyện đến công tác, được chính quyền địa phương ưu tiên sắp xếp việc làm, tạo điều kiện về chỗ ở, phương tiện sản xuất và các điều kiện sinh hoạt để ổn định cuộc sống.

Nghị quyết số 27-NQ/T.Ư về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” do Hội nghị BCH Trung ương Ðảng lần thứ 7 Khoá X thảo luận, thông qua và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh ký ban hành ngày 6/8/2008 chỉ rõ: Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Ðảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Nghị quyết xác định 5 nhóm nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước: 1) Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, từ đó, khuyến khích trí thức gia tăng sự cống hiến cho đất nước, 2) Thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; Xây dựng chính sách thu hút, tập hợp trí thức Việt Nam ở trong và ngoài nước tích cực tham gia hiến kế, hợp tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ mới... 3) Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức. Xây dựng một số trường đại học ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới, 4) Đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức, 5) Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.

Liên quan đến chính sách đãi ngộ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng, trong thông báo về kết quả chuyến thăm và làm việc của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh tại Bộ Khoa học và Công nghệ ngày 27/06/2008 của Văn phòng Trung ương Đảng nêu rõ 5 nhiệm vụ trọng tâm của ngành KH&CN Việt Nam là xây dựng chính sách trọng dụng cán bộ KH&CN. Theo đó, trước hết Bộ KH&CN cần phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các cơ quan liên quan đẩy nhanh việc hướng dẫn thực hiện các luật, nghị định như: Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Chuyển giao công nghệ, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Năng lượng nguyên tử... Tham mưu cho Chính phủ sớm thí điểm cơ chế thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ quốc gia xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước và theo đơn đặt hàng của Chính phủ.

Bộ KH&CN phải chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan đề xuất các giải pháp nhằm giải quyết thỏa đáng 4 vấn đề chủ yếu mà các nhà khoa học đang quan tâm, đó là: tạo môi trường làm việc thuận lợi (phòng làm việc, trang thiết bị, hợp tác quốc tế, tiếp cận thông tin, tự chủ sáng tạo...); chế độ thu nhập và ưu đãi thỏa đáng; cơ hội thăng tiến trong nghề nghiệp (bổ nhiệm, nâng ngạch, bồi dưỡng, đào tạo...); tôn vinh xứng đáng (khen thưởng, phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước...) và đánh giá đúng trình độ, năng lực, cống hiến của họ. Bộ khẩn trương xây dựng chính sách sử dụng và trọng dụng cán bộ KH&CN theo mục tiêu, nhu cầu, lĩnh vực ưu tiên; quan tâm đến chế độ đào tạo chuyên gia đầu ngành, hình thành tập thể khoa học mạnh, phối hợp với Bộ Nội vụ quy định chức danh ngạch kỹ sư trưởng, tổng công trình sư và cải tiến chế độ nâng ngạch...;

Ngoài chính sách tôn vinh trí thức của Đảng và nhà nước, Hội LHPN Việt nam đã thành lập Giải thưởng Kolevskaia dành riêng cho đội ngũ nữ trí thức nghiên cứu khoa học. Lễ trao giải thường Kolevskaia hàng năm và Hoạt động “Giao lưu nữ trí thức trẻ Việt Namcủa Hội là một chương trình rất có ý nghĩa đối với hoạt động của Hội LHPN Việt Nam và phong trào phụ nữ nhằm tôn vinh những tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ đã có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực tiễn cuộc sống, đem lại những lợi ích đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội; khẳng định vai trò quan trọng của đội ngũ nữ trí thức trong sự nghiệp phát triển đi lên của đất nước, đồng thời là diễn đàn trao đổi về các cơ hội, thách thức đối với nữ trí thức trong quá trình phấn đấu đạt được những thành tựu khoa học, qua đó đề xuất với Đảng, Nhà nước những chính sách và cơ chế nhằm tạo điều kiện cho nữ trí thức phát huy tiềm năng, đóng góp nhiều hơn nữa trong công cuộc đổi mới đất nước.

3. KẾT QUẢ THỰC THI CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI TRÍ THỨC, NỮ TRÍ THỨC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ BẤT CẬP

3.1. Kết quả thực thi chính sách

Trong thời gian qua, các chính sách đối với lao động nữ nói chung và với nữ trí thức nói riêng đã từng bước được thực thi và đạt được một số kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh đó, có nhiều chính sách vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống và trong quá trình thực hiện chính sách cũng xuất hiện một số vấn đề bất cập hay những hiệu ứng không mong đợi.

Bộ luật lao động đã dành hẳn một chương quy định riêng về quyền lợi đối với lao động nữ với rất nhiều chính sách ưu đãi. Điều này thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với người lao động và đặc biệt là với lao động nữ. Cụ thể là quy định về việc giải quyết chế độ nghỉ thai sản cho lao động nữ; chính sách vay vốn từ Quỹ Quốc gia giải quyết việc làm với doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ khi gặp khó khăn tài chính, giảm thuế để doanh nghiệp thực hiện thêm các hỗ trợ với lao động nữ; chính sách về việc đóng bảo hiểm xã hội của doanh nghiệp đối với người lao động. Tuy nhiên, việc thực thi chính sách chỉ được thực hiện ở các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp có quy mô lớn, còn các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì hầu như chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa hiệu quả. “Đơn cử, Nghị định 23/CP quy định giảm thuế lợi tức để sử dụng khoản tiền chi phí thêm cho việc sử dụng lao động nữ, nhưng thời gian qua, Nghị định này không được thực hiện vì các khoản chi cho lao động nữ được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh, dẫn đến tăng giá thành sản phẩm - cái khó của Doanh nghiệp gây thiệt thòi cho lao động nữ”. (nguồn: vietnamnet.com).

Thực tế cho thấy rằng, mặc dù đã có chính sách quy định về việc ưu tiên tuyển dụng lao động nữ khi nữ và nam có cùng trình độ nhưng các doanh nghiệp rất ngại nhận lao động nữ vào làm việc vì những hạn chế do đặc điểm về giới như sức khỏe, thai sản và nuôi con. Mặc dù Nhà nước đã có quy định về vấn đề hỗ trợ các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ, nhưng do những chính sách đó chưa được thực hiện một cách có hiệu quả, hơn nữa, đối với doanh nghiệp, vấn đề lợi nhuận là mục đích sống còn, do đó, việc giải quyết các chế độ cho lao động nữ theo luật lao động sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp.

Và chính những bất cập trên đã khiến cho một số doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đưa ra một số quy định khá khắt khe khi nhận lao động nữ như: Không có con trong thời gian 5 năm đầu mới vào làm việc... Ngoài ra, doanh nghiệp cũng không thực hiện một số quy đinh khác theo luật về việc tạo điều kiện cho lao động nữ được làm công việc nhẹ nhàng, giảm giờ làm trong thời gian mang thai và cho con bú.

Hệ thống an sinh xã hội của Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, do đó, phụ nữ phải gánh vác hầu hết việc chăm lo con cái, gia đình. Cụ thể là hệ thống nhà trẻ còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng, phần lớn các nhà trẻ công lập chỉ nhận trẻ từ 18 tháng trở lên. Trong khi đó, luật lao động quy định thời gian nghỉ thai sản có 4 tháng và đó chính là một trong những bất cập gây ra những khó khăn cho các lao động nữ, rất nhiều lao động nữ phải nghỉ việc không lương hoặc bỏ việc để trông con và sau một thời gian lại bắt đầu hành trình tìm kiếm việc làm từ đầu.

“Việc nuôi con bằng sữa mẹ trong nữ công nhân viên chức-lao động đang nảy sinh nhiều điều không hay, cũng bởi bất cập từ chính sách thai sản. Khảo sát của Ban Nữ công Tổng liên đoàn thực hiện trên 10 tỉnh, thành phố với 34 doanh nghiệp đông lao động nữ cho thấy, phần lớn lý do lao động nữ cai sữa sớm và phải cho con ăn sam, ăn giặm quá sớm do chế độ nghỉ thai sản 4 tháng như hiện nay buộc họ phải đi làm sớm, không có điều kiện cho trẻ bú hoàn toàn trong 6 tháng. Nếu nghỉ làm thì không có thu nhập hoặc có thể bị mất việc vì doanh nghiệp phải bố trí lao động khác thay thế. Số lao động nữ ít sữa hoặc bị mất sữa, một phần cũng do đi làm sớm hoặc nơi làm việc xa nơi ở” (nguồn: vietnamnet.com).

Điều tra mới đây của Ban Bảo hộ lao động (Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam) cho biết, vẫn còn 20% lao động nữ đang phải làm các nghề nặng nhọc, độc hại; hơn 8% doanh nghiệp có lao động nữ đang làm những nghề cấm sử dụng lao động nữ như hóa chất, cao su, xây dựng - sản xuất, vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản; gần 70% lao động nữ thường phải tiếp xúc với các yếu tố độc hại. Theo Ban Nữ công Tổng Liên đoàn, ở các ngành nghề dệt may, da giày, chế biến hải sản - nơi thu hút 80% lao động nữ, tỷ lệ lao động nữ nuôi còn bằng sữa mẹ chỉ chiếm 18%, nguyên nhân chủ yếu là lao động nữ không bố trí được thời gian cho con bú do doanh nghiệp chưa tạo điều kiện” (nguồn: vietnamnet.com).

Ngoài các chính sách đối với người lao động mà cụ thể là các chính sách đối với lao động nữ, chúng ta còn xây dựng hệ thống chính sách đối với trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng. Trong thời gian qua, chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong “công tác cán bộ nữ”, đội ngũ cán bộ nữ phát triển không ngừng cả về số lượng lẫn chất lượng.

Tỷ lệ cán bộ nữ tham gia BCH Trung ương Đảng khóa IX đạt 8,6%; BCH các cấp bộ đảng nhiệm kỳ 2001 - 2005 tăng hơn so với nhiệm kỳ trước:ở cấp tỉnh, thành ủy đạt 11,32%; cấp huyện, quận, thị xã: 12,89%; cấp xã, phường, thị trấn: 11,88%; trong đó, có chị trong Ban Bí thư Trung ương Đảng, 3 chị giữ chức vụ Bí thư Tỉnh ủy và 8,66% số ủy viên Ban Thường vụ tỉnh, thành ủy là nữ. Trong các cơ quan dân cử, đại biểu Quốc hội khóa X là nữ chiếm 26,22%, khóa XI là 27,31%. Cán bộ nữ giữ cương vị Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội khóa XI chiếm tỷ lệ 25%, v.v... Thành tựu này đã đưa Việt Nam lên vị trí thứ nhất châu Á và thứ hai trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội. Đại biểu HĐND các cấp là nữ cũng tăng dần. So sánh giữa nhiệm kỳ 1999 - 2004 với nhiệm kỳ 2004 - 2009 ở cấp tỉnh, thành tăng từ 22,33% lên 23,83%; cấp quận, huyện tăng từ 20,12% lên 22,94%; cấp xã, phường, thị trấn tăng từ 16,56% lên 20,10%.

Trong các cơ quan quản lý nhà nước, có Phó Chủ tịch nước là nữ; số cán bộ nữ giữ chức vụ bộ trưởng và tương đương chiếm 11,29%, thứ trưởng và tương đương là 12,85%, vụ trưởng và tương đương là 12,2%, vụ phó và tương đương là 8,1%. Nhiệm kỳ 2004 - 2009, cán bộ nữ giữ chức chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố là 3,12%, phó chủ tịch: 16,08%; chủ tịch ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã là 3,62%, phó chủ tịch là 14,48%; chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn: 3,42%, phó chủ tịch là 8,84%.

Trong sản xuất kinh doanh, cả trong khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh, đã xuất hiện nhiều phụ nữ giỏi. Nhiều chị là tổng giám đốc, giám đốc, phó giám đốc công ty và chủ doanh nghiệp, các nhà doanh nhân giỏi trên nhiều lĩnh vực.

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, sự bình đẳng giới đã có tiến bộ quan trọng. Đội ngũ trí thức nữ đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, phụ nữ chiếm 37% trong tổng số những người có trình độ đại học, cao đẳng; số giáo sư, phó giáo sư là nữ chiếm tỷ lệ 6,7%, tiến sĩ là 19,9%. Tuy nhiên, tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lý ở cơ quan nghiên cứu và các trường đại học còn thấp. Trong khối đoàn thể chính trị, xã hội, cán bộ nữ chiếm từ 25% đến 30%” (Công tác cán bộ nữ trong tình hình mới – Hà Thị Khiết).

Những số liệu trên đây là một chỉ báo quan trọng cho chúng ta thấy được thành quả của việc thực hiện bình đẳng giới trong công tác xã hội. Tuy nhiên, nhìn vào những số liệu trên, chúng ta thấy còn có nhiều bất cập. Thứ nhất, Việt Nam là nước đứng thứ nhất châu Á về tỷ lệ nữ tham gia đại biểu Quốc hội nhưng tỷ lệ nữ làm chủ nhiệm các uỷ ban của Quốc hội khoá XI chỉ chiếm có 25%, trong các cấp chính quyền, đoàn thể, tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo cấp cao thường không nhiều. Cụ thể, trong cơ quan quản lý nhà nước, Phó chủ tịch nước là nữ, tỷ lệ nữ bộ trưởng chỉ chiếm chưa đến 12%. Trong khi phụ nữ chiếm gần 50% tỷ lệ dân số Quốc gia nhưng số cán bộ nữ giữ chức chủ tịch UBND cấp thành phố, cấp tỉnh chỉ chiếm 3,21%, ngoài ra chủ tịch UBND cấp xã, phường là 3,4%. Việc này ảnh hưởng đến vấn đề ra các quyết định liên quan đến phụ nữ và trẻ em như việc giải quyết các vấn đề về y tế, giáo dục, an sinh xã hội….

Trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tỷ lệ nữ thạc sỹ, tiến sỹ đã cao hơn nhiều so với thời gian trước, số chị em tham gia các đề tài khoa học cấp Nhà nước tương đối cao nhưng chủ nhiệm đề tài chủ yếu là nam giới. Thành viên các hội đồng phong giáo sư, phó giáo sư phần lớn là nam giới và việc phong học hàm cho nữ trí thức còn mang nhiều định kiến giới. Rõ ràng, việc đánh giá năng lực nữ trí thức còn quá khắt khe và vẫn chưa thực sự bình đẳng với nam giới, điều này còn thể hiện ở việc tỷ lệ chị em phụ nữ tham gia công tác quản lý trong các cơ quan khoa học như các trường, các viện nghiên cứu còn thấp.

Có rất nhiều ý kiến cho rằng, quy định tuổi về hưu của phụ nữ nói chung và nữ trí thức nói riêng còn nhiều bất cập, gây hạn chế khả năng cống hiến của các họ. Thực tế, mỗi phụ nữ đều phải đảm nhiệm hai vai trò, là người vợ, người mẹ trong gia đình và là người cán bộ ở ngoài xã hội. Nếu trung bình mỗi người phụ nữ sinh hai con thì việc sinh nở và chăm sóc con cái đã chiếm mất 5 năm, chưa kể vì bận rộn với gia đình nên thời gian dành cho học tập của chị em cũng hạn chế hơn nam giới và nữ trí thức chỉ thực sự đóng gớp được từ tuổi 40 trở đi, tức là khi con cái đã cứng cáp và có nhiều thời gian hơn. Thế nhưng, tuổi về hưu của nữ trí thức lại ít hơn nam giới 5 năm và thực tế là cho đến độ tuổi này, chị em đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trong công tác và đang còn khả năng làm việc. Vậy, việc về hưu vào độ tuổi 55 có phải là một thiệt thòi cho các nữ trí thức và cho chính Nhà nước không?

Vấn đề đãi ngộ đối với trí thức cũng đã được bàn bạc và thảo luận nhiều, TP. HCM đã kiến nghị áp dụng mức lương vượt khung rất cao cho các trí thức Việt kiều. “TP. đề nghị có cơ chế tài chính đãi ngộ các nhà khoa học Việt kiều tham gia điều hành Viện với mức lương Viện trưởng là 17.000.000 đồng/tháng, Phó Viện trưởng là 15.000.000 đồng/tháng, Trưởng phòng nghiên cứu là 12.000.000 đồng/tháng. Tổng mức chi lương cả năm cho 1 Viện trưởng, Phó Viện trưởng và 5 Trưởng phòng nghiên cứu là 1,104 tỷ đồng/năm”(nguồn: vietnamnet.com). Hay nghị định 115 của chính phủ được coi như “cơ chế khoán 10 trong khoa học” cũng góp phần thu hút trí thức, khai thác được tiềm lực của khoa học - công nghệ. Nhưng, vấn đề chảy máu chất xám vẫn xảy ra, hàng năm vẫn có một lượng lớn trí thức bỏ Nhà nước ra làm cho các công ty tư nhân hoặc công ty có vốn đầu tư nước ngoài hay các tố chức phi chính phủ. Điều này thể hiện chính sách đãi ngộ và cơ chế vận hành bộ máy của chúng ta chưa đủ mạnh để giữ chân trí thức.

Thủ tục hành chính rườm rà trong quá trình thực hiện đề tài khoa học là nguyên nhân khiến cho các nhà khoa học không yên tâm khi làm nghiên cứu. Các nhà khoa học phải dành quá nhiều thời gian cho việc giải ngân mà đáng lẽ ra thời gian đó phải dành cho nghiên cứu khoa học. Theo báo khoa học và phát triển, Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) vừa hoàn thành bản dự thảo Quy định về tài trợ nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực khoa học. Nếu dự thảo được hoàn thiện và thực thi thì lần đầu tiên ở Việt Nam, các nhà khoa học có thể sống và làm việc bằng khoa học, có đủ điều kiện tối thiểu để nghiên cứu.

Ngoài ra, một số chính sách khác như chính sách chuẩn hoá cán bộ cũng đạt được một số kết quả nhất định, “hiện nay 70%-80% công chức trong cơ quan Trung ương đã có trình độ đại học, và tỷ lệ này là 50% ở tuyến quận huyện” (nguồn: báo SGGP), nhưng chất lượng chuyên ngành chưa cao, thậm chí có nơi còn rất tồi. Nguyên nhân của hiện tượng này là: Sau khi Nhà nước ban hành chính sách về chuẩn hoá cán bộ như cần phải đạt chuẩn hoá về bằng cấp chuyên môn, nghiệp vụ, tiếng Anh, vi tính…., các cán bộ đổ xô đăng ký tham gia các lớp thuộc hệ đại học mở, chuyên tu, tại chức, các khoá học tiếng Anh thậm chí “chạy” văn bằng, chứng chỉ với mục tiêu bảo vệ chức vụ hiện tại của mình chứ không phải để nâng cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ. Một nguyên nhân sâu xa nữa là nền giáo dục hiện tại còn yếu kém, lạc hậu đã góp phần tạo nên một đội ngũ công chức có bằng cấp nhưng không có thực lực. “Nói tới trí thức là nói tới một lớp người có trình độ tri thức cao, có chuyên môn sâu, có khả năng tư duy sáng tạo, khả năng nghiên cứu và bắt nhịp được với những tiến bộ ít nhất là ngành chuyên môn của mình. Như thế, họ cần phải biết thông thạo ít nhất một ngoại ngữ. Đàng này, rất hiếm các trí thức xuất thân từ nguồn đào tạo trong nước, có thể tự mình nghiên cứu các tài liệu ngoại ngữ, giao lưu với các đồng nghiệp ngoại quốc, tham dự một hội nghị quốc tế… Làm sao gọi là “ngang tầm” được? Nhãn hiệu trí thức gán cho không ít những người trong giới này, thật ra chỉ dựa trên tiêu chuẩn hoàn toàn hình thức là đã được đào tạo và có bằng cấp bậc cao, tức đại học-cao đẳng hoặc trên. Nhưng học thật hay học giả, bằng thật hay bằng giả ai biết? Ngay cả khi học thật, bằng thật đi nữa thì “thực lực” (thực học) của người trong cuộc phần lớn cũng chưa tương xứng với chức danh họ nhận được, vì trình độ đào tạo trong nước nói chung vẫn còn thấp so với các nước” (nguồn: báo SGGP).

Nghị quyết Trung ương 7 khóa X của Đảng là cương lĩnh xây dựng đội ngũ trí thức từ nay đến năm 2020, nhưng việc thực hiện nghị quyết vẫn còn nhiều điều bất cập, ví dụ như việc trí thức tham gia hoạch định chính sách, tư vấn, phản biện xã hội chưa được chính quyền các cấp quan tâm một cách xác đáng.“Hiện nay, rất ít dự án của nhà nước có sự tham gia của các nhà khoa học. Vụ lún sụt hầm chui Văn Thánh, kết quả kiểm định nội bộ của Bộ Giao thông vận tải đã không làm hài lòng chủ đầu tư. Sự cố nứt đốt hầm Thủ Thiêm, TP. HCM đề nghị thuê tư vấn độc lập mà khả năng phần lớn là tư vấn nước ngoài khá tốn kém, tại sao không mời các chuyên gia, nhà khoa học trong nước tư vấn, phản biện ngay từ đầu khi triển khai dự án? Rõ ràng, đây là sự lãng phí chất xám rất lớn. Nên chăng, Chính phủ cần phải cụ thể hóa một số điều trong Nghị quyết để triển khai thực hiện mới mong huy động được sự đóng góp toàn diện của đội ngũ trí thức” (Hồ Đăng).

Tóm lại, trong thời gian vừa qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chính sách đối với người lao động nói chung và với trí thức nói riêng, trong đó có nữ trí thức. Những chính sách này đã phần nào tạo điều kiện cho trí thức có cơ hội phát huy khả năng của mình trong hoạt động lao động, khoa học, quản lý, đóng góp cho xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có nhiều vấn đề bất cập như các chính sách chưa thực sự đi vào cuộc sống hoặc việc thực thi còn chưa mang tính đồng bộ, hiệu quả.

3.2. Một số vấn đề bất cập trong việc thực thi chính sách

4. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CẤP UỶ ĐẢNG, CHÍNH QUYỀN TRONG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ NỮ TRÍ THỨC

4.1. Trách nhiệm trong việc bồi dưỡng và phát triển đội ngũ nữ trí thức trong thời kỳ đổi mới

Trong hơn 20 năm Đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách phù hợp, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng. Vì vậy, đội ngũ trí thức đã hình thành và phát triển thành một lực lượng lao động hùng hậu.

Nữ trí thức Việt Nam có những đặc thù riêng là xuất thân chủ yếu từ công nhân, nông dân và trí thức. Theo những số liệu mới nhất, tỷ lệ nữ trí thức xuất thân từ tầng lớp trí thức cao hơn so với các tầng lớp khác, chủ yếu do quan niệm tiến bộ về nữ giới ở tầng lớp này. Đội ngũ nữ trí thức Việt Nam chủ yếu được đào tạo trong nước.

Thời gian qua trong lĩnh vực khoa học, giáo dục, y tế, vai trò của phụ nữ đã có những tiến bộ đáng kể. Tỷ lệ nữ trong đội ngũ cán bộ khoa học và kỹ thuật mặc dù còn chưa tương xứng với tỷ lệ phụ nữ trong dân số nước ta nhưng cũng đánh dấu một thành công to lớn của chế độ ta trong sự nghiệp giải phóng phụ nữ.

Nếu như vào những năm 1991, số lượng và tỷ lệ cán bộ khoa học nữ có trình độ trên đại học và chủ trì đề tài nghiên cứu chỉ chiếm số lượng và tỷ lệ thấp (được trình bày tại bảng dưới đây) thì sang đến các năm 2007, 2009, số lượng và tỷ lệ cán bộ nữ khoa học đã tăng lên rất nhiều

Trình độ

Nữ

Tổng số

Tỷ lệ % nữ trên tổng số cán bộ cùng trình độ

Tiến sĩ

1605

11.331

14,16

Tiến sĩ khoa học

96

905

10,60

Phó giáo sư

127

3014

4,17

Giáo sư

24

818

2,93

Đề tài, dự án cấp Nhà nước

10

150

6,66

Đề tài, dự án cấp NN độc lập

8

100

8,00

Nguồn: Bài báo “nâng cao trí tuệ cho phụ nữ - Vấn đề cấp thiết để đào tạo nguồn nhân lực trí thức, website: http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=1474

Theo số liệu cung cấp trong Hội thảo Ngày 18/12/2009 về “Vai trò của nữ trí thức Liên hiệp hội Việt Nam với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức thì tính đến năm 2009, trong lĩnh vực KH&CN, lượng nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể (42,2%). Nhiều nữ trí thức đã được Đảng và Nhà nước trao tặng những giải thưởng cao quý, nhiều nhà khoa học nữ được nhà nước tôn vinh là anh hùng lao động, cấp bằng lao động sáng tạo, các giải thưởng trong và ngoài nước. Ở những lĩnh vực khác, nữ cũng chiếm tỷ lệ cao như ngành giáo dục đào tạo có 70%, đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) là 33,1%, cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới. Trong phong trào lao động sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo, nhiều chị em đã thể hiện năng lực quản lý, bản lĩnh vượt khó trở thành người quản lý giỏi, chủ doanh nghiệp thành đạt...

Trong tham chính, nữ lãnh đạo, quản lý có mặt trên nhiều lĩnh vực - chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học, xã hội, đồng thời cũng chiếm một số lượng đáng kể.

Trong các khoá gần đây, tỷ lệ phụ nữ trong các cấp ủy Đảng mặc dù tăng không đáng kể nhưng cũng có tới 11,75% phụ nữ vào BCH Tỉnh ủy, 14,74% phụ nữ nằm trong BCH Quận/huyện uỷ, 15,18% trong BCH Đảng bộ xã/phường.

Đối với phụ nữ trong hệ thống dân cử, hiện nay, nước ta được đánh giá là có số đại biểu nữ cao trong Quốc hội, đứng đầu Châu Á, đứng thứ hai khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (sau Niu Di-lân) và xếp thứ 9/135 các nước trên thế giới. Nhiệm kỳ 2002-2007 (khoá XI) đã có 1.038 nữ đại biểu được bầu vào Quốc hội. Số lượng đại biểu nữ đã tăng nhiều so với nhiệm kỳ đầu. Nếu như khoá I có 3% (10/333) đại biểu nữ thì đến khoá XI đã tăng lên 27,6%.

Đối với phụ nữ lãnh đạo quản lý khoa học, theo thống kê, đến giữa năm 2007, cả nước có khoảng 2,7 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5% lực lượng lao động, trong đó có trên 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ và trên 6.000 giáo sư, phó giáo sư. Trí thức Việt kiều có khoảng 400.000 người, chiếm hơn 10% người Việt ở nước ngoài. Phụ nữ chiếm tỷ lệ 61% trong số những người có trình độ cao đẳng, 34% những người có trình độ đại học, 30% trình độ thạc sĩ, 21% tiến sĩ và 4% tiến sĩ khoa học. Năm 2008, trong ngành khoa học xã hội có một nữ phó giáo sư, tiến sĩ vừa được quyết định là chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước về “Vấn đề gia đình trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta trong thời kỳ đổi mới”. Tình trạng phổ biến hiện nay là nữ cán bộ khoa học là lực lượng tham gia (đôi khi là lực lượng chính) các công trình khoa học và công nghệ cấp nhà nước, còn người chủ trì các công trình này chủ yếu lại là cán bộ nam.

Những con số nêu trên đã thể hiện được vai trò và trách nhiệm của các cấp trong việc xây dựng, phát triển đội ngũ nữ trí thức. Tuy nhiên, số liệu thống kê cũng chỉ ra rằng, mặc dù trong hơn 50 năm qua, đội ngũ nữ trí thức trong các ngành khoa học của Việt Nam nhìn chung là tăng lên cả về số lượng lẫn chất lượng nhưng nếu so với tỷ lệ nữ trong dân số ( trên 51%), trong lực lượng lao động (trên 49%) và năng lực thực sự của họ thì con số nữ trí thức còn rất khiêm tốn. Hiện nay, số lượng nữ trí thức có tăng lên nhưng chỉ mới tăng ở bậc cử nhân, còn các bậc sau đại học thì không cao. Số lượng các nhà khoa học nữ tham gia quản lý nhà nước ở các cấp còn thấp và càng ở cấp cao, tỷ lệ này càng thấp hơn. Tại hầu hết các cơ quan quản lý nhà nước về khoa học, các cơ quan nghiên cứu khoa học, không có cán bộ nữ tham gia ban lãnh đạo bộ và rất ít phụ nữ tham gia lãnh đạo cấp viện. Tại Viện Khoa học tự nhiên Việt Nam và Viện Khoa học xã hội Việt Nam, là các trung tâm khoa học lớn nhất Việt Nam, không có cán bộ nữ tham gia ban lãnh đạo và là viện trưởng; có rất ít là Phó Viện trưởng.

Đây cũng là một trong những chỉ báo và là thách thức đối với các cấp trong việc bồi dưỡng, sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ nữ trí thức đối với đất nước trong thời kỳ mới. Bởi vì sẽ là rất lãng phí nhân lực trí tuệ cho xã hội nếu nữ trí thức không được đào tạo, đầu tư một cách thích đáng.

Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách nhằm phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và nữ trí thức nói riêng, nhưng thực tế cho thấy nhiều cấp ủy đảng, chính quyền và cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp chưa nhận thức đầy đủ vai trò, vị trí của khoa học, công nghệ, giáo dục đào tạo, văn hoá, văn nghệ và của đội ngũ trí thức. Định kiến và chủ nghĩa kinh nghiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã dẫn đến thái độ thiếu tin tưởng, thiếu dân chủ, thậm chí xem thường trí thức. Hành lang pháp lý bảo đảm môi trường dân chủ cho các hoạt động sáng tạo trí tuệ còn thiếu và chưa đồng bộ; nhiều chính sách không phù hợp với tình hình, có những chính sách không được thực hiện nghiêm túc, chưa biến thành hành động và kết quả thực tế. Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng (2001) đã chỉ rõ “Công tác tổ chức cán bộ chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trong thời kỳ đổi mới... Việc tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ còn nhiều thiếu sót, có khi dựa vào một số quan niệm cũ, định kiến và theo cảm tính; cách làm thiếu quy hoạch, không sâu sát, không theo đúng quy trình, chưa dân chủ lắng nghe ý kiến của nhân dân và tập thể”.

Tuy nhiên, để phát huy vai trò của nữ trí thức, Nhà nước cần có một thể chế pháp lý đầy đủ, có hiệu lực thực thi, tạo một “sân chơi bình đẳng” cho cả nam giới và nữ giới. Thực tế cho thấy, một số chính sách còn chưa phù hợp và không khuyến khích được đội ngũ nữ trí thức phát triển. Ví dụ, quy định ở Bộ luật Lao động: phụ nữ nghỉ hưu ở tuổi 55, nam giới ở tuổi 60, quy định việc nghỉ chế độ trước nam giới 5 tuổi có thể làm hạn chế sức cống hiến của nữ trí thức. Bởi phụ nữ mất nhiều thời gian cho thiên chức làm mẹ và khi có thời gian cống hiến lại nhanh chóng kề cận với tuổi nghỉ hưu chế độ.

Về chính sách cán bộ nữ, Đảng và Nhà nước đã rất quan tâm, nhằm nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ trong các ngành, các cấp, các đơn vị. Song Nhà nước chưa có chính sách riêng cho đội ngũ cán bộ nữ, chỉ có chính sách chung trong đó có phụ nữ (tuổi bổ nhiệm: QĐ 51 ngày 3/5/1999, tuổi tham gia cấp ủy: Chỉ thị 54 ngày 22/5/2000). Hơn nữa, trong chính sách còn một số điểm bất cập, do vậy chính sách chưa đi vào cuộc sống. Ví dụ, Qui định “cần có chế độ trợ cấp cho cán bộ nữ được cử đi đào tạo không quy định mức và nguồn kinh phí nên việc vận dụng chính sách rất khó khăn; Quy định tuổi đề bạt tối đa lần đầu đối với cán bộ nữ ở tất cả chức danh, các cấp, các ngành đều ít hơn nam giới 5 tuổi, tuổi đi học dài hạn nữ nhỏ hơn nam 5 tuổi là không hợp lý vì phụ nữ phải mất 10 năm sinh con và nuôi con nhỏ, ở độ tuổi 40-45 là độ tuổi phụ nữ còn sung sức, tích lũy được kinh nghiệm, không còn bận rộn con nhỏ, phụ nữ có điều kiện để phát huy khả năng của mình nhưng lại không được đào tạo, không được dự nguồn vào các vị trí lãnh đạo quản lý.

Đối với những nữ trí thức tiềm năng (nữ sinh viên trong các trường cao đẳng, đại học), trong những trường hợp có giới hạn về tỷ lệ, ví dụ tỷ lệ số người được học bổng, tỷ lệ sinh viên cao học được chuyển tiếp học nghiên cứu sinh nên tính tỷ lệ riêng cho nam và nữ. Theo quy định hiện hành, chỉ 10% học viên cao học được chuyển tiếp nghiên cứu sinh, nên chăng lập danh sách nam, nữ riêng và giữ cho nữ đủ 10% của tổng số nữ? Khi tuyển các học sinh, học viên cao học, nghiên cứu sinh đi nước ngoài tham dự các lớp huấn luyện ngắn hạn hoặc dài hạn có lẽ cũng cần theo nguyên tắc trên. Nếu số nữ đạt tiêu chuẩn chưa đủ thì nên tổ chức lớp bồi dưỡng cho họ đạt tiêu chuẩn. Cho phép các kỹ sư, cử nhân nữ được trở lại tiếp tục học các bậc cao hơn ở tuổi cao hơn tuổi quy định cho nam (vì phụ nữ còn bận làm vợ, làm mẹ ...). Hiện nay, Nhà nước chưa có những quy định về các vấn đề này.

Bởi những bất hợp lý đó, đội ngũ nữ trí thức khó có cơ hội/môi trường để phát triển và cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Chính vì lẽ đó, tại Hội nghị BCH Trung ương Đảng lần thứ 7 khoá X (tháng 7/2008), BCH Trung ương nhấn mạnh trách nhiệm của các cấp trong việc xây dựng đội ngũ trí thức nói chung, trong đó có nữ trí thức “Cần nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể về vị trí, vai trò của trí thức; hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia các hoạt động tư vấn, phản biện các dự án phát triển kinh tế - xã hội. Phê phán và xoá bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng. Đồng thời đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng các hội của trí thức.

KẾT LUẬN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP

1. Kết luận

Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện quan điểm nhất quán phát huy vai trò của trí thức, tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự cống hiến, sáng tạo của đội ngũ trí thức thông qua một số chính sách cụ thể đã được ban hành và thực hiện, như: chính sách đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ trí thức, chính sách sử dụng và tạomôi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, chính sách thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài... Những chủ trương, chính sách này đã tạo môi trường thuận lợi để trí thức phát triển về số lượng, từng bước nâng cao trình độ và năng lực sáng tạo, góp phần trực tiếp cổ vũ, khích lệ, tạo niềm tin và động lực cho trí thức cống hiến. Tuy nhiên, rất ít chính sách dành riêng cho nữ trí thức.

2. Một số giải pháp

- Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với đội ngũ trí thức.

- Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và môi trường thuận lợi cho hoạt động của nữ trí thức. Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật dành cho nữ trí thức còn thiếu và chưa đồng bộ, môi trường làm việc của nữ trí thức còn quá nhiều khó khăn.

- Có chế độ đãi ngộ và tôn vinh nữ trí thức hơn nữa, nữ trí thức cần được bố trí việc làm phù hợp với chuyên môn và năng lực của họ. đồng thời phải có chế độ lương hợp lý cho nữ trí thức.

- Cần có những chính sách khuyến kích để các thế hệ trẻ Việt Nam có điều kiện học tập, thực hành, tiếp xúc với các lĩnh vực khoa học tại những nước tiên tiến. Đồng thời phải có các biện pháp tuyên truyền giáo dục để các công dân Việt Nam ý thức được vai trò của mỗi người Việt Nam đối với công cuộc xây dựng đất nước.

- Nhà nước nên có cơ chế đào tạo các bậc đại học, trên đại học tại các tỉnh miền núi hoặc ít nhất có cơ sở đào tạo bậc thạc sỹ, tiến sỹ để giúp cho nữ trí thức giảm bớt khó khăn về chi phí tiền, thời gian; nâng mức hỗ trợ cán bộ nữ trí thức dân tộc thiểu số, cán bộ nữ làm việc ở vùng cao tham gia đào tạo ở bậc cao; khuyến khích vật chất cho các đề tài nghiên cứu khoa học do nữ làm chủ nhiệm. Phụ nữ miền núi cần khắc phục tâm lý tự ti, vượt qua mọi cản trở về định kiến giới, tập tục chưa tiến bộ, dám nghĩ dám làm và dám chịu trách nhiệm để đóng góp nhiều hơn cho cộng đồng, xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ lãnh đạo quản lý và đề xuất các giải pháp tăng cường sự bình đẳng và phát triển của cán bộ nữ trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá dất nước”, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hà Nội tháng 7/2003.

2. Bài nói chuyện “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” của đồng chí Phùng Hữu Phú, Uỷ viên Trung ương Đảng, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương tại Hội nghị Báo cáo viên trực tuyến ngày 22/7/2008-http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30463&cn_id=243880

3. Bài tham luận tại Hội thảo về trí thức Việt nam ở nước ngoài “Khơi nguồn trí thức người Việt Nam ở nước ngoài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước”, TS Phạm Kiến Thiết - Phó Vụ trưởngVụ Quan hệ Kinh tế, KH & CN, Uỷ ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao

4. Bài báo “Trao bài toán của đất nước cho đội ngũ trí thức”, website: http://www.tinmoi.vn/Trao-bai-toan-cua-dat-nuoc-cho-doi-ngu-tri-thuc-1293249.html

5. Bài báo “Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước”, website:http://trithuc.thanhnienkhcn.org.vn/home/detail.php?module=news&iCha=55&iCat=132&iNew=2161

6. Bài báo “Đội ngũ trí thức trong thời kỳ CNH – HĐH, phát triển kinh tế trí thức”, GS.VS Đặng Hữu, website: http://www.vids.org.vn/vn/asp/News_Detail.asp?mid=821&ID=347

7. Bài báo “Phát huy vai trò của nữ trí thức trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước”, website: http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30179&cn_id=378483

8. Bài báo “Nâng cao trí tuệ cho phụ nữ - vấn đề cấp thiết để đào tạo nguồn nhân lực trí thức”, website:http://www.tchdkh.org.vn/tchitiet.asp?code=1474

9. Bài báo “Nữ trí thức chưa được đãi ngộ xứng đáng”, website:http://www.baodatviet.vn/Home/KHCN/Nu-tri-thuc-chua-duoc-dai-ngo-xung-dang/200912/73065.datviet

10. Bài báo “Phụ nữ nước ta trong việc tham gia lãnh đạo và quản lý”, Lê Thị Quý - Nguyễn Thị Tuyết Nga, website: http://www.tapchicongsan.org.vn/details.asp?Object=4&news_ID=201069132

11. Chỉ thị số 190 – CT/TW ngày 7/7/1971 của ban Bí thư Khoá III về việc phân công trong công tác vận động, quản lý đội ngũ trí thức.

12. Đánh giá, quy hoach, luân chuyển cán bộ lãnh đạo quản lý thời kỳ CNH – HĐH đát nước, PGS, TS. Trần Đình Hoan (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009.

13. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ nữ trong hệ thống chính trị, Nguyễn Đức Hạt (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2009.

14. Tài liệu hỏi – đáp các nghị quyết hội nghị TW 7 - khoá X, Ban Tuyên giáo TW,Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2008.

15. Quyền phụ nữ các nước theo đạo Hồi, Đỗ Trọng Quang, Tạp chí nghiên cứu gia đình và giới, số 2-2006, tr.65-74.



 TS. Nguyễn Thị Thu Hà - Giám đốc Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương - Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   | 328   | 329   | 330   | 331   | 332   | 333   | 334   | 335   | 336   | 337   | 338   | 339   | 340   | 341   | 342   | 343   | 344   | 345   | 346   | 347   | 348   | 349   | 350   | 351   | 352   | 353   | 354   | 355   | 356   | 357   | 358   | 359   | 360   | 361   | 362   | 363   | 364   | 365   | 366   | 367   | 368   | 369   | 370   | 371   | 372   | 373   | 374   | 375   | 376   | 377   | 378   | 379   | 380   | 381   | 382   | 383   | 384   | 385   | 386   | 387   | 388   | 389   | 390   | 391   | 392   | 393   | 394   | 395   | 396   | 397   | 398   | 399   | 400   | 401   | 402   | 403   | 404   | 405   | 406   | 407   | 408   | 409   | 410   | 411   | 412   | 413   | 414   | 415   | 416   | 417   | 418   | 419   | 420   | 421   | 422   | 423   | 424   | 425   | 426   | 427   | 428   | 429   | 430   | 431   | 432   | 433   | 434   | 435   | 436   | 437   | 438   | 439   | 440   | 441   | 442   | 443   | 444   | 445   | 446   | 447   | 448   | 449   | 450   | 451   | 452   | 453   | 454   | 455   | 456   | 457   | 458   | 459   | 460   | 461   | 462   | 463   | 464   | 465   | 466   | 467   | 468   | 469   | 470   | 471   | 472   | 473   | 474   | 475   | 476   | 477   | 478   | 479   | 480   | 481   | 482   | 483   | 484   | 485   | 486   | 487   | 488   | 489   | 490   | 491   | 492   | 493   | 494   | 495   | 496   | 497   | 498   | 499   | 500   | 501   | 502   | 503   | 504   | 505   | 506   | 507   | 508   | 509   | 510   | 511   | 512   | 513   | 514   | 515   | 516   | 517   | 518   | 519   | 520   | 521   | 522   | 523   | 524   | 525   | 526   | 527   | 528   | 529   | 530   | 531   | 532   | 533   | 534   | 535   | 536   | 537   | 538   | 539   | 540   | 541   | 542   | 543   | 544   | 545   | 546   | 547   | 548   | 549   | 550   | 551   | 552   | 553   | 554   | 555   | 556   | 557   | 558   | 559   | 560   | 561   | 562   | 563   | 564   | 565   | 566   | 567   | 568   | 569   | 570   | 571   | 572   | 573   | 574   | 575   | 576   | 577   | 578   | 579   | 580   | 581   | 582   | 583   | 584   | 585   | 586   | 587   | 588   | 589   | 590   | 591   | 592   | 593   | 594   | 595   | 596   | 597   | 598   | 599   | 600   | 601   | 602   | 603   | 604   | 605   | 606   | 607   | 608   | 609   | 610   | 611   | 612   | 613   | 614   | 615   | 616   | 617   | 618   | 619   | 620   | 621   | 622   | 623   | 624   | 625   | 626   | 627   | 628   | 629   | 630   | 631   | 632   | 633   | 634   | 635   | 636   | 637   | 638   | 639   | 640   | 641   | 642   | 643   | 644   | 645   | 646   | 647   | 648   | 649   | 650   | 651   | 652   | 653   | 654   | 655   | 656   | 657   | 658   | 659   | 660   | 661   | 662   | 663   | 664   | 665   | 666   | 667   | 668   | 669   | 670   | 671   | 672   |