Sinh viên
Trang chủ   >  Tin tức  >   Sinh viên  >  
“Tôi tin mình có thể truyền được lòng nhiệt huyết nghiên cứu khoa học cho các bạn sinh viên!”
Đó là điều mà Vũ Hải Hà - trưởng nhóm nghiên cứu của đề tài được giải nhất sinh viên nghiên cứu khoa học cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo năm 2007 - “Sự tiếp thu kỹ năng nói tiếng Anh của trẻ em dân tộc thiểu số ở Sapa” đã khẳng định.

Vũ Hải Hà là cựu sinh viên lớp 031E1, Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN và hiện nay là giảng viên trẻ Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường ĐH Ngoại ngữ.

PV: Chúc mừng bạn với giải thưởng đã đạt được, cảm xúc của bạn như thế nào?

Vũ Hải Hà: Đây là giải thưởng NCKH lớn nhất mà tôi từng đạt được trong đời sinh viên. Tất nhiên tôi rất tự hào và sung sướng. Nhưng cũng tự nhận thấy cần phải cố gắng và nỗ lực hơn nữa để xứng đáng với giải thưởng và niềm vinh dự này.

Qua đây, tôi muốn gửi lời biết ơn đến các thầy cô giáo, hai bạn cùng thực hiện nghiên cứu với tôi là Chu Thu Thảo và Phạm Thu Liên, gia đình thân yêu, những người dân và các em bé dân tộc thiểu số thân thiện và hiếu khách ở Sapa. Với tư cách là một giảng viên trẻ của Trường ĐH Ngoại ngữ, tôi cũng muốn chia sẻ thành công này với các bạn sinh viên. Không dám đưa mình ra làm tấm gương, nhưng tôi chỉ muốn sẻ chia với các bạn lòng nhiệt tình say mê nghiên cứu khoa học và bài học “Có công mài sắt có ngày nên kim”.

Ảnh: Ngọc Đỗ

PV: Bạn có thể giới thiệu về đề tài?

Vũ Hải Hà: Xuất phát từ thực tế: Sự phát triển của ngành du lịch ở Sapa đã làm nảy sinh nhu cầu tiếp thu kỹ năng nói tiếng Anh của trẻ em dân tộc thiểu số trong vùng. Nhằm tìm hiểu sâu hơn về hiện tượng xã hội này dưới con mắt của các nhà sư phạm, nhóm tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài, nhằm lý giải nguyên nhân cũng như các nguồn học tiếng của các em, đánh giá khách quan kỹ năng nói tiếng Anh của các em, rút ra những bài học sư phạm cho việc dạy và học kỹ năng nói cho trẻ em các vùng miền khác ở Việt Nam. Để thực hiện được những mục tiêu đó, nhóm đã tiến hành phỏng vấn 13 em trong vùng, rồi sau đó cụ thể hoá câu trả lời của các em thông qua hình thức phỏng vấn những người dân địa phương và những du khách nói tiếng Anh ở Sapa. Cuối cùng, qua các bản câu hỏi điều tra, chúng tôi đã lấy được ý kiến đánh giá của những giáo viên dạy tiếng Anh ở Hà Nội về kỹ năng nói của các em. Từ việc phân tích những số liệu và kết quả thu thập được kể trên, chúng tôi đã đi đến kết luận: Trẻ em trong vùng học tiếng Anh vì những động cơ bên ngoài và động cơ bên trong. Tuy các em nói tiếng Anh rất trôi chảy nhưng độ chính xác thì chỉ ở mức trung bình. Từ những ưu và nhược điểm của cách tiếp thu kỹ năng nói này, chúng tôi nhận thấy rõ nét hơn tầm quan trọng của yếu tố tự tin trong giao tiếp, sự tiếp xúc với môi trường tiếng và sự cân bằng tương đối giữa hai yếu tố “chính xác” và “trôi chảy” trong quá trình dạy kỹ năng nói cho trẻ em ở những vùng miền khác của Việt Nam.

PV: Với đề tài, bạn tâm đắc nhất điều gì?

Vũ Hải Hà:
Một trong những điểm mới mà em tâm đắc nhất về đề tài là việc hướng tới những đối tượng trẻ em thiệt thòi trong xã hội, con em của đồng bào dân tộc miền núi ở Sapa - những đối tượng thường chỉ được biết đến với những cụm từ còn ít nhiều thể hiện sự thiếu thiện cảm như “trẻ em lang thang” hay “trẻ em bán hàng rong”. Chọn những đối tượng trẻ em như vậy, chúng tôi muốn chỉ ra rằng: Trước nghiên cứu khoa học tất cả đều bình đẳng và đều đáng được quan tâm như nhau. Thực tế, qua NCKH của mình, chúng tôi đã chứng minh rằng ở những trẻ em tưởng chừng như “lang thang”, “thiếu giáo dục” như thế lại tiềm ẩn rất nhiều những tiềm năng cần Nhà nước và các nhà giáo dục quan tâm và phát huy nhiều hơn. Chính ý nghĩa mới mẻ về giáo dục này sẽ hướng người đọc, vốn có thể vẫn biết đến một Sapa với tiềm năng kinh tế du lịch, sẽ biết đến vùng đất này - một “vùng mỏ” giáo dục cần phải được khai thác trong tương lai.

PV: Khi thực hiện đề tài, nhóm bạn có gặp khó khăn gì không?

Vũ Hải Hà:
Khó khăn lớn nhất đối với chúng tôi là sức ép công việc và thời gian. Thực hiện đề tài khi đang là sinh viên năm cuối, với rất nhiều bài vở, lo toan về khoá luận tốt nghiệp cũng như định hướng nghề nghiệp. Hơn nữa, do tính chất đề tài nghiên cứu của mình, chúng tôi phải lặn lội lên Sapa để thu thập dữ liệu và ý thức rõ cần giảm thiểu sai sót tới mức tối đa vì khó còn cơ hội quay trở lại. Đã có lúc chúng tôi muốn bỏ cuộc vì sức ép quá lớn ấy, đắn do cân nhắc giữa ý muốn và khả năng của bản thân. Cuối cùng, với tình yêu dành cho NCKH và lòng nhiệt huyết với đề tài, chúng tôi quyết định theo đuổi đề tài tới cùng.

PV: Vậy các bạn đã phân bố thời gian như thế nào cho các công đoạn thực hiện đề tài?

Vũ Hải Hà: Ý thức được thời gian là một trong những rào cản khó khăn nhất, dưới sự hướng dẫn của các cô giáo, ngay từ đầu chúng tôi đã lập một lịch trình làm việc nghiêm túc và thực hiện theo phương pháp “cuốn chiếu”, tức là chia nhỏ các giai đoạn nghiên cứu và làm đến đâu thì chính sửa và thống nhất đến đấy. Tuần đầu, chúng tôi chọn đề tài, viết câu hỏi nghiên cứu. Một tuần sau, viết đề xuất nghiên cứu. Sau khi được góp ý và chỉnh sửa, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài trong tháng đầu tiên, viết phần giới thiệu và tìm hiểu kỹ các vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài. Tháng sau đó, chúng tôi lên Sapa để tiến hành thu thập dự liệu trước khi tổng kết và phân tích dữ liệu thu được. Bước tiếp theo là thu thập ý kiến của giáo viên tại Hà Nội. Cùng lúc đó bắt tay vào viết phần phân tích và trình bày dữ liệu để trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đặt ra. Những tháng cuối cùng là giai đoạn “nước rút” với các công đoạn còn lại như viết phần kết luận, tóm tắt đề tài và nghiệm thu đề tài nghiên cứu ở lớp, khoa và trường.

PV: Hướng phát triển của đề tài?

Vũ Hải Hà:
Được triển khai đề tài nghiên cứu này là mơ ước của tôi, bởi những gì tôi làm được mới chỉ là những quan sát, khảo cứu để qua đó vẽ nên một bức tranh rõ nét của hiện tại. Điều làm tôi băn khoăn và trăn trở nhiều hơn là làm sao để chuyển hoá bức tranh ấy trở thành hiện thực, để những suy nghĩ, những đề xuất trong NCKH của chúng tôi có thể giúp cho các em dân tộc thiểu số ở Sapa phát huy những tiềm năng của mình trong việc nói tiếng Anh và được hưởng một điều kiện giáo dục tốt hơn trong tương lai gần nhất. Muốn làm được điều đó thì không thể vội vàng, mà cần có những nghiên cứu, thực nghiệm cụ thể để đưa ra những mô hình, phương pháp và nội dung học tập và giảng dạy cho phù hợp với hoàn cảnh của các em. Đây là một bài toán khó mà tôi mong nhận được sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần để có thể xúc tiến trong một thời gian gần nhất.

PV: Khi tác giả của đề tài NCKH là cá nhân và nhóm thì có sự khác biệt gì?

Vũ Hải Hà: Điểm khác biệt lớn nhất là tính tương tác trong công việc. Nếu biết điều hành công việc nhóm tốt, thì sự tương tác ấy sẽ là hợp tác. Khi đó, không những sức nặng của công việc sẽ được chia đều cho số đầu người mà những ý tưởng và ưu điểm của mỗi cá nhân sẽ bù đắp, bổ sung cho những khiếm khuyết của người khác - điều này làm NCKH cá nhân không có được. Tuy nhiên, nếu không biết điều hành công việc nhóm thì công việc sẽ dồn cả vào chỉ một hai cá nhân. Sự tương tác sẽ trở thành sự kìm hãm, khiến công việc của nhóm sẽ bị ỉ trệ, nguy cơ thất bại là có thể xảy ra. Điều quan trọng nhất, là sự tôn trọng của cả tập thể dành cho cá nhân và ý thức cả nhân dành cho công việc chung của cả tập thể.

Đây thực sự là bài toán “tương tác” khó khăn trong NCKH nhóm mà NCKH cá nhân không phải đau đầu giải quyết. Đó là lý do tại sao em nghĩ cần phải có một người trưởng nhóm, không phải là người chỉ đạo, “chỉ đâu đánh đấy” mà là điều phối viên để giải quyết bài toán khó đó, khiến cho tương tác mãi là hợp tác.

PV: Bạn có thể chia sẻ đôi điều về công việc hiện tại của bạn?

Vũ Hải Hà: Hiện tôi đang là giảng viên Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh Mỹ - Trường ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN. Bên cạnh việc giảng dạy thực hành tiếng, tôi còn mạnh dạn tham gia giảng dạy bộ môn NCKH ở trường. Đây là bộ môn mới, rất khó, bản thân tôi cũng cần phải học hỏi rất nhiều để có thể đứng lớp được bộ môn này. Nhưng có một điều tôi tin chắc mình có thể làm được, đó là truyền lòng nhiệt huyết NCKH cho các em SV của mình, cũng như chia sẻ với các em những kinh nghiệm nghiên cứu của bản thân. Quá trình thực hiện NCKH đã giúp tôi rất nhiều trong việc giúp cho bài giảng của mình trở nên thực tiễn, sinh động hơn và kéo những lý thuyết khá khô khan của bộ môn NCKH gần với thực tế cuộc sống của các bạn SV hơn.

Điểm trung bình chung học tập các năm:

  • Năm thứ nhất: 9.1
  • Năm thứ hai: 9.4
  • Năm thứ ba: 9.3
  • Năm thứ tư: 10.0

Bằng khen và giấy khen:

  • Bằng khen Gương mặt trẻ tiêu biểu của Giám đốc ĐHQGHN trong các năm học 2004-2005, 2005-2006 và 2006-2007;
  • Bằng khen của Giám đốc ĐHQGHN vì có thành tích học tập và rèn luyện tốt trong khoá đào tạo cử nhân 2003-2007;
  • Nhiều giấy khen khác

Giải thưởng NCKH:

  • Giải nhất SV NCKH cấp Bộ với đề tài “Kỹ năng nói Tiếng Anh của trẻ em dân tộc thiểu số ở Sapa”(năm học 2006-2007);
  • Giải nhất SV NCKH cấp Trường ĐH Ngoại ngữ với đề tài cá nhân “Đọc thông tin trên mạng Internet với tư duy phê phán”, Giải ba với “Phương pháp tình huống và sự áp dụng phương pháp tình huống trong việc dạy và học Tiếng Anh” (2005 - 2006), Giải khuyến khích cho đề tài nghiên cứu nhóm “Kĩ năng đọc những văn bản dài” (2003 - 2004)

Danh hiệu:

  • Thủ khoa tốt nghiệp của Trường ĐH Ngoại Ngữ, ĐHQGHN, khoá đào tạo 2003 - 2007 với điểm tổng kết toàn khóa đạt 9.45.
  • Gương mặt trẻ tiêu biểu của ĐHQGHN trong các năm học: 2004-2005, 2005-2006, 2006-2007

Học bổng:

  • Học bổng POSCO (2007);
  • Học bổng YAMAHA (2006);
  • Học bổng của Chính phủ Thái Lan phối hợp cùng trường Đại học Srinakarinwirot (2006).  

 V.T.O (thực hiện) - Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :