Văn hóa
Trang chủ   >  Văn hóa  >    >  
Một đời làm thầy luôn tận tụy cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học
GS.TS.NGƯT. Nguyễn Đức Dân năm nay bước vào tuổi thất thập, cái tuổi được gọi là “xưa nay hiếm”...

Thế nhưng hiếm khi người ta thấy ông nghỉ ngơi. Hàng năm, cứ vào khoảng tháng 9, tháng 10, các thế hệ sinh viên, nghiên cứu sinh và học viên cao học lại thấy ông lặn lội từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội để tham gia giảng dạy không chỉ các chuyên đề mà còn cả giáo trình cơ bản cho một số khoa của Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN như: Khoa Ngôn ngữ học, Khoa Triết học và cả cho Trường ĐHSPHN nữa.

Sự yêu thích chuyên môn và lòng say mê với sự nghiệp “trồng người” khiến giáo sư quên đi cả những năm tháng tuổi già để “trẻ lại” cùng các thế hệ học trò thân yêu và với các bộ môn khoa học “non trẻ” mà ông là một trong những chuyên gia đầu ngành có công tạo dựng ở Việt Nam. Đó là môn Ngôn ngữ học thống kê, Ký hiệu học và một bộ môn thuộc khoa học liên ngành: Logic và tiếng Việt. Đó là những món “độc chiêu” mà ông đã tham gia giảng dạy trong suốt mấy chục năm qua ở nhiều trường đại học khác nhau.

Vốn xuất thân là một giáo viên dạy Toán (ông tốt nghiệp Khoa Toán ĐHSPHN năm 1957), sau khi được đào tạo tiến sĩ tại Ba Lan, trở về nước GS. Nguyễn Đức Dân trở thành giảng viên trụ cột của bộ môn Ngôn ngữ học thống kê tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội trong thập niên 70 của thế kỷ trước. Ưu thế của tư duy toán học đã giúp ông nhanh chóng nắm bắt các tri thức cơ bản của ngôn ngữ học để sau này tự rèn luyện, làm việc và nghiên cứu, trở thành một nhà nghiên cứu tài ba trên nhiều lĩnh vực chuyên ngành và liên ngành với 17 công trình nghiên cứu (cả viết chung) được xuất bản và 40 bài báo gắn liền với chuyên môn đã công bố trên những tạp chí khoa học khác ở cả trong và ngoài nước. Trong đó, tiêu biểu là các công trình về ngôn ngữ học thống kê, từ điển, logic ngữ nghĩa và cú pháp, logic và tiếng Việt, ngữ dụng học… Điểm đáng chú ý là, ngay từ gần nửa thế kỷ trước, khi nhiều nhà nghiên cứu còn giương cao chủ thuyết tích cực đi vào “chuyên môn hẹp” với tinh thần “càng hẹp càng sâu” thì GS. Nguyễn Đức Dân đã nhìn thấy tính tất yếu của nghiên cứu liên ngành. Bởi vậy, ngay từ khi mới “vào cuộc” ngoài lĩnh vực rất chuyên sâu (ngôn ngữ học thống kê) ông đã hướng tới một chân trời khoa học mà ở đó cần phải có sự liên kết chặt chẽ của nhiều ngành khoa học mới có thể giải quyết đúng đắn, nói đúng hơn là đi vào nhận thức bản chất của đối tượng một cách sâu sắc. Với cách nhìn tỉnh táo đó, ông đã mạnh dạn “khoan những mũi khoan” vào nhiều điểm khác nhau của một đối tượng “khổng lồ” là tiếng Việt trên nhiều phương diện nghiên cứu ở cấp độ từ, cú pháp, văn bản. Những công trình nghiên cứu và các bài báo khoa học của ông vì thế luôn có một nét riêng không dễ trộn lẫn với các nhà nghiên cứu khác. Nó mở ra một hướng đi mới trong nghiên cứu tiếng Việt bên cạnh các xu hướng nghiên cứu truyền thống, nghiên cứu đơn ngành (nghiên cứu chuyên sâu về một lĩnh vực).

Các thế hệ học trò được GS. Nguyễn Đức Dân đào tạo thường tiếp thu được ở ông những thao tác nghiêm ngặt trong nghiên cứu và phương pháp tư duy chặt chẽ. Đây là một đặc điểm nổi bật trong các công trình khoa học của ông. Có được kết quả này là do ông vốn đi lên từ một chuyên gia về logic học lại xuất thân là thầy dạy toán. Những con số chính xác cộng với thói quen của logic lập luận làm cho các công trình khoa học của ông luôn có được một cấu trúc hoàn chỉnh. Trong đó, mọi miêu tả, phân tích đều dựa trên những cơ sở khoa học chắc chắn, với những số liệu minh chứng rõ ràng. Bởi vậy, nhiều vấn đề mới ông khai phá, tuy không phải lúc nào cũng dễ tiếp cận đối với tất cả những ai đang làm công tác nghiên cứu chuyên ngành, vẫn có tính thuyết phục. Đó là chưa nói, một số vấn đề lý thuyết khi ông triển khai vào thực tiễn lại tạo ra những hấp dẫn riêng. Cuốn “Nỗi oan thì, là, mà” (NXB Trẻ, TP. HCM, 2001) là một trong những công trình khoa học kiểu như vậy. Thông qua cuốn sách, người đọc có thể hiểu được vai trò, chức năng của một kiểu từ loại đã được tranh luận không ít trong giới nghiên cứu tiếng Việt. Đó là lớp từ được các nhà nghiên cứu gọi là hư từ. Bằng lối viết dí dỏm cùng những đánh giá chân xác về hoạt động của lớp từ này, ông đã nêu ra những nhận định tinh tế giúp cho những ai chưa có dịp đi sâu hoặc hiểu chưa đúng về chúng có thể chọn một cách tiếp cận thích hợp để sử dụng chúng sao cho có hiệu quả.

Có thể nói, một đời làm thầy, GS. Nguyễn Đức Dân chưa lúc nào ngừng công việc nghiên cứu, khám phá, sáng tạo. Ông luôn coi việc nghiên cứu là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng đối với công tác đào tạo ở bậc đại học, nhất là với các trung tâm nghiên cứu khoa học cơ bản như Đại học Tổng hợp Hà Nội, Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh trước đây và hiện nay là ĐHQGHN và ĐHQG TP.HCM. Bởi không nghiên cứu sẽ không thể cập nhật được với trình độ khoa học của thế giới và không thể có “vốn” để đào tạo các sinh viên và nghiên cứu sinh. Cho nên, ngay từ 30, 40 năm về trước, ông đã cùng với nhiều nhà giáo lão thành của Bộ môn Ngôn ngữ học (nay là Khoa Ngôn ngữ học, Trường ĐHKHXH&NV) luôn chú ý đến việc gắn lý thuyết với thực tiễn, gắn việc học tập với nghiên cứu khoa học ngay trong sinh viên. Có không ít sinh viên giỏi, ngay từ năm thứ hai, thứ ba đã viết thành công những khoá luận và báo cáo khoa học thuộc các lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành. Một số sinh viên xuất sắc được ông hướng dẫn luận văn tốt nghiệp đại học (bây giờ gọi là khoá luận tốt nghiệp cử nhân) ngay sau khi rời ghế nhà trường đã có các bài nghiên cứu đăng trên tạp chí đứng tên chung với ông, hoặc đứng độc lập. Trong số đó, nhiều người đến nay đã trở thành các nhà nghiên cứu có tên tuổi.

Tuy là người ít nói, nhưng mỗi lời nói ra của ông đều dỉ dỏm hoặc ẩn chứa nhiều hàm ý sâu sắc. Nhìn bề ngoài, khó biết GS. Nguyễn Đức Dân là người sống rất trọng tình. Đó là cái tình không ồn ào, thoáng qua mà sâu lắng, bền lâu. Năm 1988, do nhu cầu công tác, ông và một số giáo sư lão thành của ngành Ngữ văn đã vào TP Hồ Chí Minh để xây dựng và phát triển đội ngũ các nhà khoa học ở phía Nam sau khi đất nước thống nhất. Con đường dài hai ngàn cây số không bao giờ làm giảm nhiệt tình của ông đối với cái nôi khoa học, nơi ông lập nghiệp từ thuở ban đầu - đó là Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Hàng năm, “đến hẹn lại lên”, ông thường ra Hà Nội giảng dạy cho các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hoặc tham gia phản biện luận án tiến sĩ ở một số hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp Nhà nước. Ông cũng là thành viên tích cực tham gia giảng dạy chuyên đề sau đại học và giảng dạy các môn học cơ bản, nâng cao cho sinh viên hệ chất lượng cao của Khoa Ngôn ngữ học (ĐHKHXH&NV, ĐHQGHN). Mỗi lần ra Bắc, ông không quên các học trò cũ của mình. ông thường dành những cuốn sách mới xuất bản đem tặng học trò, đồng thời ông cũng rất phấn khởi mỗi khi học trò của mình có một công trình được xuất bản. Cái tình của ông thật trầm lắng mà sâu sắc. Nó được thể hiện ở mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi phút trò chuyện. Không chỉ có niềm vui, mà ngay cả ai đó có nỗi buồn, hay không may khó khăn, ông luôn chia sẻ, động viên bằng những lời mộc mạc nhưng vô cùng cảm động.

Chẳng những là một người trọng tình, GS. Nguyễn Đức Dân còn là một người nhiệt huyết và đầy trách nhiệm. Nhắc đến ông, mặc dù mấy chục năm đã trôi qua, nhưng đến nay nhiều người đã từng công tác tại Khoa Ngữ văn cũ vẫn còn nhớ đến công lao không nhỏ của ông trong việc tạo lập những mối quan hệ hợp tác với nước ngoài, đặc biệt là năm học 1979 - 1980, khi ông sang giảng dạy tại Đại học Paris 7 (CH Pháp). Chính ông đã mở ra một chặng đường mới trong hợp tác giảng dạy giữa hai trường Đại học Paris 7 và Đại học Tổng hợp Hà Nội. Có nhiều chuyến công du của các thầy, cô giáo Khoa Ngữ văn sang Pháp cũng bắt đầu từ đây. Chỉ riêng việc tạo cầu nối cho những người đi sau tiếp tục xuất dương cũng có thể khẳng định ông là một người rất có ý thức trách nhiệm đối với đồng nghiệp và thế hệ trẻ. Ông đã trở thành một biểu tượng của tinh thần đồng nghiệp cao cả và tình thầy trò gắn bó keo sơn.

Ông đã gắn bó với sự nghiệp giáo dục gần nửa thế kỷ, bền bỉ như con ong thợ dựng xây. Bây giờ khắp ba miền đất nước đều có những học trò được ông đào tạo đã trở thành các nhà nghiên cứu có uy tín. Không những thế, ông còn có công đào tạo nhiều sinh viên, nghiên cứu sinh nước ngoài. Cho đến nay, ông đã hướng dẫn thành công tổng cộng là 10 luận án tiến sĩ và phó tiến sĩ. Trong đó có một trường hợp đặc biệt là anh Ahn Kyong Hwan người Hàn Quốc. Anh là người Hàn Quốc đầu tiên làm luận án phó tiến sĩ ngôn ngữ học tại Việt Nam dưới sự hướng dẫn của GS. Nguyễn Đức Dân. Chỉ trong một thời gian ngắn sau khi tốt nghiệp anh đã trở thành một nhà Việt Nam học và là một dịch giả nổi tiếng với bản dịch những tác phẩm kinh điển như Truyện Kiều, Ngục trung Nhật ký,… từ tiếng Việt ra tiếng Hàn. Với GS. Nguyễn Đức Dân, sự nghiệp đào tạo ngôn ngữ học của ông không chỉ phát huy những tiềm năng chuyên ngành mà còn có tác dụng và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, tạo đà cho những thành công ở các lĩnh vực văn học, dịch thuật…

Có người hỏi: Vì sao GS. Nguyễn Đức Dân lại có khả năng làm việc dẻo dai như vậy? 70 tuổi mà ông vẫn “đánh Đông, dẹp Bắc” khắp các miền. Đó chính là vì ông là một nhà giáo luôn có ý thức rèn luyện thể chất với một tinh thần thể thao lành mạnh để có sức làm việc chuyên môn. Ông quan niệm, bằng cấp học vị chỉ là cái vỏ, còn làm việc mới là cái bên trong, cái nói lên phẩm chất lao động của mỗi người. Ông chẳng những là người viết nhiều, dạy nhiều mà còn là một nhà thể thao xuất sắc trong đội ngũ các giảng viên đại học. Những ai đã từng sống ở Ký túc xá Mễ Trì vào những năm 1973 - 1980 đều không thể quên hình ảnh của một giảng viên trẻ cứ sau giờ lên lớp, vào lúc 4 giờ 30 phút chiều lại có mặt tại sân bóng bàn kê giữa hai nhà C1 và C2…

Sau này, khi chuyển vào TP.HCM, GS. Nguyễn Đức Dân vẫn giữ được thói quen chơi thể thao vốn có của mình. Năm 2002, ông vẫn là nhà vô địch bóng bàn của khối cán bộ, công nhân viên chức ĐHKHXH&NV (ĐHQG TP.HCM).

Năm nay, GS. Nguyễn Đức Dân bắt đầu bước sang tuổi bảy mươi, nhưng ông vẫn khoẻ mạnh và nhanh nhẹn. Các thế hệ học trò vẫn đang chờ đón những bài giảng của ông để học ông một phong cách làm việc, rèn luyện và phấn đấu cùng với những tri thức mà ông đã tích luỹ của một đời làm thầy và làm nhà khoa học thực sự tâm huyết với nghề.

 Hữu Đạt - Bản tin ĐHQG Hà Nội - số 178, tháng 12/2005
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :