Trang chủ   >   >    >  
Giáo dục trong mối quan hệ với triết học
Có thể nói, giáo dục là đối tượng nhắm tới của nhiều trào lưu tư tưởng lớn ở châu Âu, kể từ thời Hy Lạp cổ đại cho đến ngày nay. “Việc các triết gia can thiệp vào giáo dục không phải là ngẫu nhiên mà do mối liên quan chặt chẽ giữa triết học và giáo dục”. Thực tế cho thấy những ưu việt của giáo dục ở các nước châu Âu chính là những giá trị được vun xới và chắt chiu bởi rất nhiều các dòng tư tưởng, được trải nghiệm qua thực tiễn và kinh qua nhiều thách thức lịch sử.

Triết gia Hy Lạp cổ đại nói về giáo dục
Có thể không phải nói quá khi cho rằng đối với Plato thì triết học chính là triết lý về giáo dục. Bản thân triết học khi giải quyết một trong hai vấn đề lớn nhất của nó là nhận thức luận cũng có nghĩa là tìm hiểu về quá trình nhận thức của con người, đồng nhất với vấn đề của giáo dục. 
Socrat đã coi một trong những phương thức quan trọng nhất trong giáo dục là thảo luận (discussion). Trên thực tế, những bài giảng của Socrat đều được tiến hành dưới hình thức thảo luận với học trò mà Plato là một trong số đó. Socrat còn mở trường học để dạy thuật hùng biện, ít nhất là giúp công dân bảo vệ mình trước tòa án. Đặc biệt Socrat đã chú trọng đến tranh luận về các vấn đề liên quan đến con người, tâm hồn con người. Con người là gì, và con người sẽ đi đến đâu? Danh dự là gì? Đạo đức là gì? Bản ngã là gì? Đó là những vấn đề đạo đức và tâm lý mà Socrat đặt ra. Các triết gia Hy lạp đã triệt để thực hành hình thức giáo dục thông qua thảo luận, tranh luận, coi đó là cách để nâng cao khả năng tự biện và trau dồi tư duy. Cuốn “Nền cộng hòa” của Plato là những tranh luận liên tục giữa các nhân vật về nhiều vấn đề trong đó có siêu hình, thần học, đạo đức học, tâm lý học, sư phạm, chính trị và thẩm mỹ, thuyết cộng sản và xã hội, thuyết nam nữ bình quyền, thuyết hạn chế sinh sản và giáo dục.
Plato coi con người học tập và con người triết học có chung một gương mặt “sự yêu thích học tập cũng như sự yêu thích triết học”. Khi bàn đến giáo dục, ông cho rằng cần có “thể dục cho cơ thể và âm nhạc cho tâm hồn”. Ngoài ra còn phải giáo dục văn học bằng cách kể cho trẻ em nghe những câu chuyện hay (loại bỏ những câu chuyện tầm thường). Ông cho rằng phải lựa chọn những câu chuyện hấp dẫn nhưng phải có ý nghĩa nhằm xây dựng cho trẻ em một tâm hồn đẹp. Theo ông, phải loại bỏ hoàn toàn những câu chuyện thần thoại về chiến tranh, về các vị thần với những tính cách xấu xa. Đặc biệt ông cho rằng cần phải học toán, không phải vì mục tiêu tính toán kinh doanh mà vì “vẻ đẹp trang nhã của toán học”, vì toán học tạo ra những tỉ lệ “hài hòa” và học toán “làm cho con người trở nên nhanh nhạy hơn khi học tất cả những thứ khác; với những người có trí tuệ chậm chạp, nếu được học toán họ sẽ sắc bén hơn”. Một số môn học khác gần với toán phải được đưa ra giảng dạy như môn hình học vì môn này cần cho nghệ thuật chiến tranh. Tiếp theo, thanh niên phải học môn thiên văn học vì nó cần cho nghề nông và định hướng khi di chuyển.
Tư tưởng châu Âu thời Phục Hưng và Khai Sáng
Là một tu sĩ người Hà Lan, được giáo dục ở Pháp, Érasmus (1469-1536) đã sớm đưa ra những quan điểm về cải cách nhà thờ và giáo dục, hưởng ứng lời kêu gọi của Martin Luther. Erasmus đã đề ra các phương pháp giảng dạy mới, sách giáo khoa làm cơ sở cho các cải cách giáo dục. Năm 1522, Erasmus cho xuất bản sách giáo khoa về viết văn, trong đó ông kêu gọi “tránh sử dụng từ vựng hoa mỹ, sáo mòn” và “cách tốt nhất để phát triển phong cách tự nhiên là học tập, thực hành chăm chỉ và đọc nhiều tác phẩm của các nhà văn có tiếng tăm như Cicero, Pliny, Poliziano”. Sau khi cuốn giáo khoa về viết văn được công bố, Erasmus tiếp tục viết sách cho giáo dục, trong đó có cuốn De copia, “như là một cuốn sách giáo khoa chuẩn mực trên toàn vùng Bắc Âu... được nhiều tác giả sau này sử dụng và cải biên”.
Châu Âu bước vào thế kỷ XVI với luồng gió mới của thời kỳ Phục hưng. Con người trở thành đối tượng trung tâm của khoa học, nghệ thuật, triết học và giáo dục có trách nhiệm phát triển con người một cách toàn diện. Để có thể đào tạo một con người toàn diện, giáo dục phải bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có Trí dục, Đức dục, Thể dục. Một trong những người có nhiều đóng góp cho giáo dục thời kỳ Phục hưng là Rabelais (1494 - 1553), nhà văn, nhà tư tưởng người Pháp, người được coi là “Erasmus của Pháp”. Các tư tưởng về giáo dục đã được Rabelais chuyển tải trong loạt truyện về Pantagruel and Gargantua. Cũng như Erasmus, Rabelais đã chế giễu phương pháp giáo dục và sách giáo khoa thời Trung cổ, khi trường học “tiêu phí mất cả một quãng đời hoa niên mà chẳng nhằm mục tiêu nào”. Rabelais chủ trương một chương trình giáo dục bách khoa bao gồm nhiều môn học, trong đó chú trọng đến các môn khoa học tự nhiên, các môn khoa học xã hội thì có Sử và Luật. Bên cạnh Trí dục, Rabelais coi Đức dục có vai trò hết sức quan trọng “kiến thức mà không có lương tâm thì chỉ tàn phá tâm trí, đẩy tâm trí vào chỗ tiêu vong”. Lòng thương yêu con người, tinh thần tôn sư trọng đạo, tự trau dồi bản thân là những nội dung mà Rabelais muốn học sinh nhận thức, rèn luyện. Rabelais không chỉ bàn đến nội dung giáo dục mà còn đề ra các phương pháp giáo dục hiệu quả. Ông cho rằng cần phải học ở mọi nơi mọi chỗ, học gắn kết với cuộc sống và thực hành. Ông khẳng định nguồn kiến thức quan trọng nhất là sách vở nên phải biết cách “đọc” và đọc là một kỹ năng cần được rèn giũa từ nhỏ. Vốn là một nhà văn, Rabelais đã truyền đạt những tư tưởng về giáo dục thông qua tiểu thuyết với giọng văn châm biếm, hài hước. Ông đã định hướng tới một nền giáo dục có hơi hướng của xã hội tư bản mang tính thực tiễn và phát triển con người toàn diện. Tuy nhiên, vào thời đại của mình, Rabelais vẫn chưa định hình về việc giáo dục nhân sinh quan “học xong thành người nhưng con người đó không biết mình sinh sống để làm gì, phụng sự quyền lợi cao quý nào”.
Cùng sống trong thời đại Phục hưng của Pháp, Montaigne (1533-1592) mới thật sự là một nhà tư tưởng về giáo dục, bản thân ông đã có ảnh hưởng nhất định đối với nhiều triết gia, trong đó có Rene Descartes, Pascal, Jean-Jacques Rousseau… Là người sinh ra trong một gia đình giàu có, được hưởng một nền giáo dục hoàn hảo theo khuôn mẫu thời Trung cổ (học hoàn toàn bằng tiếng La tinh), được tôn vinh trong giới quý tộc Pháp, Montaigne đồng thời cũng trải nghiệm nhiều biến cố khi nước Pháp rơi vào cuộc chiến tranh tôn giáo. Triết học của ông được đúc kết nên từ chính những kinh nghiệm trong cuộc sống, về ứng xử của con người trước những xung đột xã hội, xung đột tôn giáo, phương châm sống và tồn tại trong bối cảnh xã hội thiếu trật tự và đầy bất trắc. Trong lý luận về giáo dục, ông chú trọng dạy cho con người sống thật với bản vị của mình chứ không phải sống như những ông thánh mà giáo dục thời Trung cổ hướng tới. “Trong thời đại Trung cổ, dưới ảnh hưởng của tôn giáo, người ta tìm cách biến thành thần thánh. Nhưng đó là một điều điên cuồng vì không thể biến thành thần được”. Quan điểm này của Montaigne đã được các nhà tư tưởng thời Khai sáng phát triển để nhận thức rằng con người muốn trưởng thành và định đoạt số phận của mình không có cách nào khác là phải học tập, rèn luyện tu dưỡng.
Nếu Rabelais và Montaigne là những đại diện cho lý luận giáo dục châu Âu thời kỳ Phục hưng thì John Locke (1632-1704) là một trong những triết gia - nhà giáo dục Anh thời kỳ đầu Khai sáng, người nối tiếp chủ nghĩa kinh nghiệm của Rabelais, Montaigne và sớm đưa ra tư tưởng về tự do của con người, tạo nền tảng cho lý luận giáo dục phương Tây hiện đại. John Locke là “người đặt nền móng cho chủ nghĩa kinh nghiệm của Anh, chủ nghĩa duy tâm của Berkeley, chủ nghĩa hoài nghi của Hume, chủ nghĩa phê phán của Kant; là người đi đầu trong ngành tâm lý học, người đã đả phá tâm lý học cổ điển của Aristotle và thiết lập cơ sở cho phương pháp quan sát bên trong (introspective method) mà các nhà tâm lý học hiện đại vẫn sử dụng; ông là người mở đường cho lý luận giáo dục trong việc dám đương đầu với phương pháp hàn lâm và những nguyên tắc thô cứng của nhà trường và ủng hộ một nền giáo dục vì sự phát triển toàn diện, tự nhiên của trẻ thơ”.
Hai chuyên luận “Essay Concerning Human Understanding” (Luận về nhận thức của con người” (1689) và “Some Thoughts Concerning Education” (Một số suy nghĩ về giáo dục) (1693) của Locke về giáo dục con người, về quan điểm hình thành nhân cách của con người - công dân đã trở thành tư tưởng dẫn đường cho giáo dục hiện đại. Trong Treatise on Government (Chuyên luận về nhà nước) Locke cho rằng “giáo dục phải nhằm mục tiêu tạo ra những công dân tốt hơn là tạo ra những con người tốt”. Như nhiều nhà giáo dục khác, ông tán thành một nền giáo dục toàn diện bao gồm trí dục, đức dục, thể dục, trong đó ông đề cao đức dục, đặt đức dục lên hàng đầu và coi trí dục “là phần cuối và thứ yếu, kiến thức tuy cần, nhưng chỉ ở mức phụ mà thôi”. Ông phản đối việc bắt trẻ sử dụng quá nhiều trí nhớ khi học tập “không cần bắt trẻ phải nhớ quá nhiều. Các điều mà trò lưu ý đến, làm trò thích thú, nếu thầy biết trình bày có trật tự và phương pháp nhất định là học trò ghi nhớ mãi, không quên được”. Cho đến ngày nay, những quan điểm này của John Locke vẫn được áp dụng triệt để trong giáo dục phương Tây.
Montesquieu (1689-1755), triết gia Khai sáng của Pháp, nhận thấy mối quan hệ khăng khít giữa giáo dục với nền chính trị của một đất nước “trật tự chính trị tạo ra nền giáo dục phục vụ cho mục tiêu của nó. Ở các nhà nước quân chủ giáo dục tạo ra danh dự; ở các nhà nước cộng hòa giáo dục tạo ra giá trị; ở các nhà nước chuyên chế giáo dục tạo ra nỗi e sợ”. Trong chuyên luận The Spirit of the Laws (1748) Montesquieu đã dành một phần (Quyển 4) để viết về giáo dục và gắn liền với nó là các kiểu nhà nước tương ứng. Ngay phần đầu Quyển 4 này, ông viết “Nguyên tắc về giáo dục là thứ đầu tiên mà chúng ta phải nắm bắt được. Vì giáo dục chuẩn bị cho cuộc sống công dân, mỗi gia đình riêng lẻ phải được điều hành bởi một kế hoạch chung rộng lớn bao trùm lên tất cả”. Chính là vì giáo dục sẽ đào tạo nên những công dân sống trong xã hội của một thể chế chính trị nhất định, các nguyên tắc giáo dục được quy định bởi thể chế chính trị đó. “Trong xã hội quân chủ, danh dự đóng một vai trò quan trọng… danh dự có một số nguyên tắc tối thượng mà người có giáo dục phải tuân thủ. Nguyên tắc quan trọng nhất là được phép định giá cho tài sản nhưng không được phép định giá cho cuộc sống; nguyên tắc thứ hai là khi được thăng chức, (người có giáo dục) không bao giờ được phép thể hiện rằng họ không xứng đáng với vị trí đó; nguyên tắc thứ ba là có một số điều mà danh dự đã cấm ngặt thì đó là những thứ không bao giờ được màng tới, dù luật pháp không ngăn cấm”. Montesquieu đã sớm tỏ thái độ phê phán chế độ chuyên chế và nền giáo dục của nó “Nếu giáo dục trong chế độ quân chủ ca tụng trí tuệ thì các nhà nước chuyên chế tìm cách hạ thấp nó. Dưới chế độ này, giáo dục chỉ nhằm tạo nên những kẻ biết nghe lời”. Trong khi đó, ông ủng hộ chế độ cộng hòa cùng giáo dục của nó “Chính trong thể chế cộng hòa, giáo dục mới phát huy được tòan bộ sức mạnh của nó…Giá trị (mà giáo dục đem lại) có thể được hiểu là tình yêu đối với luật pháp và với đất nước. Tình yêu này đòi hỏi cả lợi ích công cộng lẫn riêng tư nên nó là nguồn gốc của mọi giá trị cá nhân”. Tương tự như John Locke, Montesquieu coi mục tiêu của giáo dục là đào tạo những công dân mẫu mực phù hợp với một xã hội nhất định mà ông coi là “một đại gia đình lớn”.
Các nhà tư tưởng giáo dục thế kỷ XVI, XVII đã có đóng góp không nhỏ để tạo đà cho thế kỷ XVIII được coi là “thời đại của giáo dục” với hai người khổng lồ là Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) và Immanuel Kant (1724-1804).
Rousseau là người có đóng góp to lớn đối với phong trào Khai sáng của Châu Âu, gây ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng đối với cuộc Cách mạng Pháp 1789 và đặc biệt còn là một nhà giáo dục, đặt nền móng cho “kỷ nguyên về sư phạm” ở thế kỷ XVIII. Khác với các nhà tư tưởng về giáo dục trước đó, Rousseau đã lấy trẻ em làm đối tượng cho triết lý về giáo dục của mình, làm “tâm điểm cho quá trình giáo dục”. Tư tưởng về giáo dục của Rousseau được thể hiện rõ nhất qua tiểu thuyết Emile hay là về giáo dục. Ra đời trong bối cảnh cả châu Âu đang “lên cơn sốt về giáo dục”, cuốn Emile của Rousseau vẫn khiến dư luận châu Âu phải bất ngờ về những tư tưởng độc đáo của mình, dù ông tự nhận là kế thừa và chịu ảnh hưởng rất nhiều của những triết gia đi trước như Montaigne, John Locke. Rousseau được coi là cha đẻ của các trào lưu giáo dục cấp tiến của thế kỷ XX, chẳng hạn Trào lưu Trường học hiện đại (the Modern School movement) hay trào lưu Trường học tự do (Free School movement).
Nếu phần lớn các nhà giáo dục trước đó đều coi mục tiêu giáo dục là đào tạo ra những công dân mẫu mực cho xã hội thì Rousseau lại cho rằng việc giáo dục nên một con người kép (con người và công dân) là “sự nhọc công uổng phí” bởi vì “sự giáo dục này hướng về hai mục đích tương phản mà lỡ cả hai: sự giáo dục hòng tạo nên một con người kép luôn ra vẻ đem lại tất cả cho người khác, song bao giờ cũng chỉ mang lợi cho riêng mình mà thôi… Toàn thiên hạ đều thế cả, nên chẳng lừa được ai”. Rousseau đề xuất một nền giáo dục hướng con người tới sự phát triển tự nhiên chứ không phải giáo dục để con người thực hiện một chức năng nhất định nào đó trong xã hội “nếu một cá nhân được đào tạo cho vị trí của anh ta mà ra khỏi vị trí ấy, anh ta không còn thích hợp cho việc gì nữa hết”. Rousseau nêu mục tiêu của giáo dục “Việc học tập đích thực của chúng ta là học tập về thân phận con người. Theo tôi ai trong chúng ta biết chịu đựng tốt hơn cả các điều hay điều dở của cuộc đời này là người được giáo dục tốt hơn cả; từ đó mà thấy rằng sự giáo dục đích thực".

 

 Trần Thị Phương Hoa - VNU Media
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
  • Không có tin nào liên quan!
Trang: